HỘI THIỀN TÁNH KHÔNG TRUNG ƯƠNG

Bài Đọc Thêm: Đối Chiếu Kinh - PHẨM ĐÁNG ĐƯỢC CUNG KÍNH

10 Tháng Năm 20237:33 CH(Xem: 2317)

Bài Đọc Thêm

ĐỐI CHIẾU KINH

PHẨM ĐÁNG ĐƯỢC CUNG KÍNH

blank
"Như vầy tôi nghe:

"Một thời Thế Tôn trú ở Sāvatti (Xá Vệ), Jetavana (Kỳ Đà Lâm), tại khu vườn ông Anāthapiṇḍika (Cấp Cô Độc). Tại đấy, Thế Tôn nói như sau:

- Thành tựu sáu pháp, này các Tỳ kheo, Tỳ kheo đáng được cung kính, đáng được tôn trọng, đáng được cúng dường, đáng được chắp tay, là phước điền vô thượng ở đời. Thế nào là sáu?

Ở đây, này các Tỳ kheo, Tỳ kheo khi mắt thấy sắc, không ưa thích, không ghét bỏ, trú xả, chánh niệm tỉnh giác; khi tai nghe tiếng, không ưa thích, không ghét bỏ, trú xả, chánh niệm tỉnh giác; khi mũi ngửi hương... khi lưỡi nếm vị... khi thân cảm xúc... khi ý biết pháp, không có ưa thích, không có ghét bỏ, trú xả, chánh niệm tỉnh giác.

Thành tựu sáu pháp này, này các Tỳ kheo, Tỳ kheo đáng được cung kính, đáng được tôn trọng, đáng được cúng dường, được chắp tay, là vô thượng phước điền ở đời.

Thế Tôn thuyết như vậy. Các vị Tỳ kheo ấy hoan hỷ, tin thọ lời Thế Tôn dạy."

(Trích Phẩm ĐÁNG ĐƯỢC CUNG KÍNH, Tăng Chi Bộ Kinh, tập 3, tr. 9-10, do Hòa Thượng Thích Minh Châu dịch từ Pàli tạng.)

 

GIẢNG

1. Ý NGHĨA

Đây là bài pháp Phật dạy các vị Tỳ kheo  thực tập bằng cách trong 4 oai nghi đi, đứng, nằm, ngồi, khi mắt thấy các hình tướng, các màu sắc của cảnh vật, người, thú; khi tai nghe tiếng (âm thanh đủ loại, từ tiếng nhạc, lời ca đến những lời ngon ngọt, dịu dàng hay thô kệch, xấc xược, hỗn láo), mũi ngửi hương thơm hay khó chịu; lưỡi nếm vị cay, đắng; khi thân xúc chạm với đối tượng bên ngoài hay những cảm giác từ bên trong khởi lên; khi ý khởi lên những hình ảnh kỷ niệm xa xưa, những xúc cảm đau buồn hay vui sướng, hoặc những ý nghĩ do sự tác động của 5 giác quan liên hệ đến quá khứ, tương lai, và hiện tại, các vị đó cần phải "không ưa thích, cũng không ghét bỏ và tâm phải luôn luôn ở trong trạng thái bình thản hay thanh thản trước các đối tượng của giác quaný căn, mà Phật gọi là "trú xả." "Trú" là "ở trong," "xả1" là "bình thản hay thanh thản." "Trú xả" là ở trong trạng thái bình thản, trạng thái không dính mắc vào các đối tượng trong 3 thời quá khứ, tương lai và hiện tại. Nhưng làm sao đạt được "không ưa thích," 'không ghét bỏ," và "xả" trước các đối tượng của 5 giác quan và sự khởi lên của ý căn thuộc 3 thời? Ở đây, Phật không dạy gìn giữ sáu căn, cũng không dạy quán chiếu sáu trần là tạm bợ hay không có thực chất; Phật dạy pháp CHÁNH NIỆM VÀ TỈNH GIÁC. Nghĩa là dù sáu căn tiếp thu sáu trần hay sáu trần khởi động trong sáu căn, các vị Tỳ kheo luôn luôn phải nhớ là không khởi niệm phân biệt "ưa thích," hay "ghét bỏ" về các đối tượng đó, mà chỉ nhớ là duy trì niệm biết rõ ràng về các đối tượng đó thôi. Có như thế, tâm mới "bình thản" được. Niệm biết rõ ràng này chính là tánh giác vậy.

Như vậy, bằng cách thực hành chánh niệm và tỉnh giác, có khả năng giúp các vị Tỳ kheo đạt được trạng thái tâm không ưa thích, không ghét bỏ và bình thản trước các đối tượng thế gian, hay tâm không còn dính mắc vào các đối tượng khi sáu căn tiếp xúc với sáu trần hay sáu trần tự khởi động bên trong sáu căn mà không có sáu thức tham dự vào. Chỉ vì tánh giác đã có mặt.

________________________

1. xả: thanh thản, bình thản: P: upekkhā: equanimity.  Một trong 4 vô lượng tâm, quan trọng bậc nhất về đức hạnh của người Phật tử. Nó là nền tảng của tâm giải thoát, vì nó không vướng mắc vào vui buồn và khổ đau, phiền não, vượt lên trên những phân biệt hai bên.

 

2. KẾT QUẢ

Nếu thành tựu trọn vẹn pháp chánh niệm và tỉnh giác trong 4 oai nghi, các vị Tỳ kheo xứng đáng được mọi người chắp tay cung kính, được mọi người tôn trọng, cúng dường, và được xem như có rất nhiều ruộng phước trên đời.  Riêng trên mặt tâm linh, vị Tỳ kheo đó đã thành tựu được cách làm cho tánh giác hiển lộ; bóng đen của vô minh hắc ám đã bị đẩy lùi để cho ánh sáng trí huệ được phát huy; tâm chấp trước đã bị đẩy lùi về quá khứ để cho tâm thanh tịnh, phóng khoáng, bao dung xuất hiện. Và đặc biệt là định và huệ đều đồng có mặt trong 4 oai nghi của vị Tỳ kheo đó. Bởi vì trên căn bản, tánh giác là hiện thân cho định và huệ.

 

3. ĐIỂM THEN CHỐT

Như vậy, xuyên qua bài kinh ĐÁNG ĐƯỢC CUNG KÍNH, ta nhận ra rằng Phật dạy các vị Tỳ kheo trong 4 oai nghi đều giữ chánh niệm và tỉnh giác để khi sáu căn tiếp xúc với sáu trần (đối tượng), sáu thức không khởi động.  Có như thế các vị ấy mới không ưa thích, không ghét bỏ và trú xả.

Với hàng cư sĩ, nếu dựa theo bài kinh này để ứng dụng, ta không cần kềm giữ sáu căn, cũng không cần quán chiếu sáu trầnkhông thật, trái lại ta chỉ ngồi nhìn sự có mặt của sáu trần bên trong cơ chế sáu căn khởi lên mà tâm vẫn an tịnh; mặc tình cho các mô thức tri giác cứ luân phiên xuất hiện, nhưng chẳng quậy phá gì được bề mặt của tánh biết. Do đó, điểm then chốt của bài kinh nằm trong 4 chữ "chánh niệm tỉnh giác" mà ta cần nắm rõ nghĩa thuật ngữ này để thông suốt cốt tủy bài pháp. Đồng thời ta cũng soi rọi lại sự dụng công của ta qua pháp tỉnh thức biết trong bước 1 và bước 2 trước đây, xem Thiền và Giáo lý có đi chung với nhau không.

 

4. TÌM HIỂU Ý NGHĨA CHÁNH NIỆM VÀ TỈNH GIÁC.

Về thuật ngữ, "chánh niệm và tỉnh giác" xuất phát từ trong nhóm từ của tiếng Pàli là sati ca sampajañña ca (mindfulness and clear awareness) mà Phật thường sử dụng để dạy trong các kinh: Kinh Niệm Xứ (10) và Nhập Tức Xuất Tức Niệm (118) Trung Bộ Nikàya và Kinh Sa Môn Quả (2), Kinh Đại Niệm Xứ (22), Kinh Phúng Tụng (33), Trường Bộ Nikàya, và các kinh trong Tăng Chi Bộ như kinh Đáng Được Cung Kính, kinh Niệm Chết, kinh Bốn Hạng Người... Trong đó chữ "sati"  được dịch theo nghĩa chính của từ này là "chánh niệm" vì từ này được Phật kết hợp chung với từ sampajañña  (full awareness, total awareness or clear awareness), có nghĩa "biết đầy đủ," "biết toàn thể" hay  "biết rõ ràng," được dịch thoát nghĩa là "tỉnh giác."

 

1. Nghĩa thứ nhất - Từ sati có nhiều nghĩa. Thông thường, nghĩa chính của nó là "niệm" hay "chú ý tới" hoặc "nhớ tới." Trong trường hợp sati được kết hợp chung với sampajañña, Hòa Thượng Thích Minh Châu dịch đúng nghĩa là "chánh niệm." Tức là, hễ có tỉnh giác hay "biết đầy đủ," "biết toàn thể," "biết rõ ràng," phải có chánh niệmNhư vậy, trong trường hợp này nghĩa của chánh niệm và tỉnh giác được hiểu là "nhớ tới” hay "chú ý tới" "sự biết rõ ràng" một cách chân chánh; không tà niệm trong đó.

 

Nhưng biết rõ ràng cái gì? Đó là biết rõ ràng sáu trần động trong sáu căn hay trong sáu căn có sự khởi động của sáu trần mà tâm ta vẫn ở trong trạng thái bình thản

Tại sao phải biết như thế? Vì có giữ niệm biết như thế, tâm mới không duyên theo hay không dính mắc với sáu trần trong 4 oai nghi và hằng ở trong trạng thái xả hay bình thản. Đây là mục đích yêu cầu của bài kinh.

Đặc biệt nhất là lúc tọa thiền, khi các mô thức tri giác riêng rẽ từ sáu căn khởi lên, ta không dính mắc với chúng. Nếu dính mắc với chúng, niệm biết kia liền trở thành "tà niệm phân biệt," không còn mang ý nghĩa "chánh niệm." Khi "tà niệm phân biệt" có mặt, chúng sẽ phá tan tiến trình định của ta. Tức là trong lúc đó ta đã theo vọng tưởng, dưới các dạng của mô thức tri giác riêng rẽ và sự đối thoại thầm lặng. Chính vì thế, để đạt chánh niệm, ta phải tỉnh giác (hay tỉnh biết). Nếu mê, tức không tỉnh, ta sẽ bị niệm từ các mô thức tri giác trong sáu căn dẫn đi.

Đây là lý do vì sao Phật dạy các vị Tỳ kheo phải "chánh niệm và tỉnh giác." Vì có nhớ tới cái "biết rõ ràng," tâm ta mới không dính mắc với các sự kiện xảy ra từ bên trong sáu căn, xem như ta đạt được "trú xả" hoặc đạt được "không ưa thích," "không ghét bỏ" về những điều gì do sáu căn thu vào từ sáu trần bên ngoài hay bên trong cơ thể.

 

Cho nên, để làm rõ ý nghĩa niệm, ở trường hợp này từ sati được hiểu là "chánh niệm." Tức là ta phải hằng nhớ tới một niệm, đó là niệm "tỉnh giác."

 

Điều quan trọng ở đây, chúng ta cần hiểu rõ thêm ý nghĩa 2 từ "tỉnh giác" hay "biết đầy đủ," "biết toàn thể," "biết rõ ràng" trong trường hợp này như thế nào. Giác là biết. Từ Pàli là jañña. Trong con người, trên thực tế có ba cái biết: biết của ý thức, biết của ý căn và biết của tánh giác. Biết của ý thức là biết phân biệt rõ ràng giữa hai vật, trong đó có kèm theo ngôn ngữ. Biết của ý căn là biết của trí năng biện luận hay tư duy tính toán, trong đó cũng có kèm theo ngôn ngữ. Còn cái biết của tánh giác thì biết toàn thể, trong đó không có ngôn ngữ. Ở đây, để tránh lẫn lộn với hai cái biết có kèm theo ngôn ngữ, Phật dùng thêm từ sampa kết hợp với jañña, lập thành từ kép sampajañña. Từ này có nghĩa "biết rõ ràng," "biết đầy đủ," "biết toàn thể." Trong tự thân con người chỉ có Tánh Giác đóng được vai trò "biết rõ ràng," "biết đầy đủ," "biết toàn thể."  Như vậy, khi Phật dùng từ sati đi kèm theo từ sampajañña, ta biết rằng đây là Phật chỉ thẳng chức năng biết của tánh giác. Bởi vì chỉ có tánh giác mới biết rõ ràng, biết đầy đủ, biết toàn thể đối tượng bên ngoài hay bên trong sáu căn mà vẫn luôn luôn ở trong trạng thái xả, hay không dính mắc với các đối tượng giác quan một cách tự động. Lý do, cái biết của tánh giác là cái biết không ngôn ngữ, không cảm thọ, nên tuy biết mà nó vẫn bình thản, không phê phán, không bày tỏ tình cảm một cách tự nhiên. Ngoài ra nó lại biết luôn sự khởi động của ý căný thức. Còn ý thứcý căn thì luôn luôn biết đối tượng theo từng phần qua sự truyền vào của 5 giác quan, và đòi hỏi phải có suy luận, có phân biệt của ngữ ngôn trong đó. Nên cái biết này luôn luôn biểu lộ ưa thích hay ghét bỏ. Tức là cái biết đó luôn luôn biểu lộ tâm phân biệt, luôn luôn biểu lộ hai mặt: tốt/xấu; thiện/ác; lưng chừng/ba phải. Nói chung là hai bên.

 

2. Nghĩa thứ hai. - Nhưng làm thế nào để không hai bên? Chỉ có im lặng từ trong tâm thức (không lời) mới cụ thể hóa được không phân biệt, không hai bên, không ưa thích, không ghét bỏ.  Còn nếu nói ra thành lời, dù đó là lời trung thực, lời chân chánh vẫn có bên này hoặc bên kia ngay!  Lý do là ta vẫn còn đứng trên bình diện phàm tâm vọng chấp để nhận định hay phê phán đối tượng kia là tốt hay xấu, phải hay không phải. Do đó, ở nghĩa thứ hai, chánh niệm đồng nghĩa với KHÔNG LỜI hay VÔ NGÔN.  Vì nếu có lời phát ra, tâm ta sẽ ở vào một bên hoặc chánh hoặc tà, hoặc thiện hoặc ác. Cho nên để tránh chấp trước, tránh phân biệt, Phật dạy các vị tỳ kheo là "an trú trong chánh niệm," "không chấp trước một việc gì trên đời." Có nghĩa "không an trú trong tà niệm phân biệt," mà "an trú trong sự tĩnh lặng nội tâm và không dính mắc với đối tượng hay không duyên theo đối tượng của các căn."

Như vậy, ở trường hợp thứ hai, nghĩa chánh niệm cũng đồng nghĩa với vô niệm. Nó được dùng để chỉ cho trạng thái tâm hằng yên tĩnh và đàng sau trạng thái hằng yên tĩnh này xuất hiện một dòng biết không hai. Đó là sampajañña, biết rõ ràng, biết đầy đủ, biết toàn thể về đối tượng hay sự kiện trước mắt mà không có kèm theo lời nói thầm. Hoặc nếu có phát ra lời, lời đó không có sự can thiệp của trí năng hay của ý thức mà là sự kiến giải của tánh giác. Bởi vì nếu có trí năng hay ý thức tham dự, nội dung lời nói của ta sẽ không được thanh tịnh, không được trong sạch, không được thanh cao. Ít hay nhiều đều vướng mắc sự chấp trước, ưa thích hay ghét bỏ, chủ quan hay thiên lệch, hoặc bị sự tác động của quyền lợi. Bởi vì lời nói đó do tự ngã chủ động phát ra, luôn luôn được đặt dưới sự suy luận hay phân tích của ý thứcý căn. Trong lúc đó, ý thứcý căn vốn được xây dựng trên cơ sở tập khí hay lậu hoặc.

 

Chú ý: - Trong trường hợp khác, chánh niệm (P: sammāsati; Skt: samyaksmṛti: right mindfulness) là yếu tố thứ bảy trong Bát Chánh Đạo; có nghĩa niệm chơn chánh. Niệm chơn chánh theo Bát Chánh Đạo là "không có tà phân biệt," "không có tâm tán loạn, tâm xao động," hay "tâm không duyên theo sáu trần," tâm không nghĩ thiện, không nghĩ ác." Nói gọn lại là "nhất tâm" hay "một tâm." Tức là tâm không dính mắc với bất cứ đối tượng gì.

Trên mặt tích cực, tâm duyên theo sáu trần thuộc tà niệm, vì tâm còn ở phạm trù đối đãi giữa hai sắc thái của đối tượng là: phải và trái; tốt và xấu; cao thấp... Đây là sắc thái tâm do ý thức phân biệt tạo nên. Chính vì thế, theo sau ý thức không thể nào có chánh niệm, dù cho trạng thái ý thức đó được xem là cao siêu cùng tột hay sâu thẵm nhất, bởi vì thực chất nó vẫn là cái bị sanh. Chỉ có theo sau tánh giác mới có chánh niệm. Vì tánh giác là cái vô sanh. Cho nên chánh niệm được xếp vào hàng thứ bảy, sau chánh định. Vì có đạt được sự không theo sáu trần hay sự không loạn động của tâm, ta mới thành tựu được định. Nhưng thế nào là tâm không theo sáu trần? tâm không loạn động? Đó là trạng thái tâm ngôn không động. Chính vì điểm chủ yếu này nên chánh niệm được xem là nhân của chánh định, vì muốn đạt được chánh định, trước hết ta phải đạt được "nhất tâm." Trong con người có hai sắc thái tâm: vọng tâmchân tâm. Như vậy, sự nhất tâm này phải là sự có mặt của chân tâm. Mà chân tâm là gì? Là tánh giác! Như thế, sự nhất tâm này là trạng thái biết thường hằng nhưng tâm ngôn không khởi động của tánh giác, chứ không phải còn một thứ tâm tập chú vào một đối tượng, hoặc tâm nghĩ đến thiện hay không nghĩ đến của ý thức. Như vậy, chánh niệm đồng nghĩa với tánh giác.

Tóm lại, chánh niệm và tỉnh giác có nghĩa khi các căn tiếp xúc đối tượng, hay khi các đối tượng tự khởi trong các căn dưới hình thái các mô thức tri giác, mà Thiền tông gọi là pháp trần, ta cố gắng nhớ giữ niệm biết của tánh giác để tự ngã không có mặt trong tiến trình biết này. Do đó, tuy hằng biết rõ ràng đối tượng mà tâm vẫn không dính mắc với đối tượng.  Vì sao? Vì trong đó không có mặt tự ngã mà có mặt tánh giác. Một khi tánh giác xuất hiện, bóng đen của vô minh phải bị tan mất. Nó càng có mặt thường xuyên, phiền nãođau khổ càng lánh xa trong cuộc sống hằng ngày của ta. Đây là pháp tu mà Phật dạy hàng Tỳ kheo sử dụng để tâm được bình thản trước các duyên. Hay đứng trước các pháp thế gian, tâm không ưa thích, không ghét bỏ, không dính mắc; trái lại được bình thản. Mọi sự chấp trước không còn khởi dậy trong tâm vị đó nữa. Khi đã nhuần nhuyễn sự yên lặng nội tâm, vị ấy mới đáng được chắp tay cung kính, đáng được cúng dường và đáng được hưởng phước điền.

Nếu nói theo Lục Tổ Huệ Năng (638-713), vị ấy đã được tâm bình hạnh thẳng. Còn nói theo Mã Tổ (709-788), cháu đời thứ hai của Lục Tổ, vị ấy đạt được bình thường tâm.

 

5. LÀM THẾ NÀO CỤ THỂ HÓA CHÁNH NIỆM TỈNH GIÁC?

Để cụ thể hóa chánh niệm tỉnh giác trong tiến trình đạt được "trú xả," ta đã áp dụng hai bước.  Bước 1, thực hành trống rỗng chú ý, không định danh đối tượng, không dán nhãn sự vật và thực tập thiền hành vô ngôn.

Sau khi có kinh nghiệm về cái biết không lời, ta bắt đầu thực hành bước 2 là tỉnh thức biết. Trong pháp tỉnh thức biết chia làm 2 giai đoạn.

Giai đoạn 1, trong 4 oai nghi, tỉnh thức canh chừng niệm khởi dưới hình thái các mô thức tri giác riêng rẽ khởi lên trong sáu căn bằng tánh biết. 

Giai đoạn 2, thầm nhận chủ đề: "tỉnh thức mà không lập lại nội dung thực hành đó trong đầu." Thuật ngữ gọi là "tỉnh thức biết mà không tỉnh thức biết, đó là chân tỉnh thức biết." Tức là khi đã nhuần nhuyễn cách thực hành chủ đề tỉnh thức biết, ta mới thực hành giai đoạn này. Đây là giai đoạn thực hành với chủ đích tác động thẳng vào tánh giác, làm cho tánh giác trở thành một năng lực. Tuy nhiên, điều đáng chú ý ở đây là trước khi tọa thiền, chủ đề này không hiện ra trong tâm thức ta nữa. Tâm ta ở vào trạng thái trống không, nhưng ta vẫn "hằng biết phương thức tỉnh thức biết thực hành như thế nào." Mỗi khi có một mô thức tri giác xảy ra trên thân hay tại vùng ký ức vận hành, ta đều biết rõ ràng.  Bằng sự biết này, ta sẽ trừ được các tạp niệm mỗi khi chúng khởi lên. Bởi vì đây là cái biết không lời của tánh giác! Khi nó có mặt, các tạp niệm liền bị xua tan.

Tóm lược

- Trên mặt lý luận, đại cương pháp này được giảng là đối trước sáu trần, ta lúc nào cũng tỉnh thức biết nhưng biết trong vô ngôn để canh chừng niệm khởi từ bên trong các mô thức tri giác riêng rẽ của sáu căn khởi lên. Mỗi khi chúng khởi lên, ta đều nhận biết.

- Sắc thái biết này là cái biết của tánh giác chứ không phải biết của ý thức. Do đó, trong trạng thái biết này không có mặt tự ngã (self-ego). Và ý niệm ta/tôi trong trường hợp này được đồng hóa như "ông chủ" hay "chân ngã" hoặc "cái ta giác ngộ" (the "I-enlightenment") biết rõ đường đi về nhà phải đi bằng lối "tỉnh thức biết", hay cái ta trong vai trò "nhân chứng." Vì ta biết sự động của sáu trần trong cơ chế sáu căn mà ta không duyên theo, không hùa theo chúng. Trái lại ta chỉ đứng nhìn sự xuất hiện của chúng với tâm trạng bình thản; giống như người đứng ngoài vòng "tranh chấp" giữa hai nhóm "sáu trần" trong "sáu căn" đang gấu ó (quarreling) với nhau.

- Trên thực tế, lúc bấy giờ chỉ có mặt tánh biết với sự động của các mô thức tri giác trong cơ chế các căn. Tuy nhiên, ta vẫn trong tư thế tỉnh thức, chứ không mê ngủ. Vì có tỉnh thức, ta mới canh chừng được niệm khởi, không bị niệm dẫn đi. Hễ một niệm vừa khởi lên, ta liền biết, niệm kia liền tự tắt ngay. Ta không cần khởi niệm diệt vọng, mà vọng cùng tự lặn mất. Bởi vì đây là sự biết không lời của tánh giác. Khi tánh giác có mặt, tất nhiên vọng kia phải bị xua tan ngay!

- Ta đã biết rõ sự khác nhau giữa hai sắc thái tỉnh thức của ý thứctỉnh thức của tánh giác. Ở đây, tỉnh thức biết là sự tỉnh thức của tánh giác. Như vậy, khi nói đến tỉnh thức biết, ta nhận rõ ngay đây là sự tỉnh thức biết không lời, vốn là chức năng của tánh giác. Sở dĩ ta áp dụng kỹ thuật tỉnh thức biết, ấy là vì bằng cách này ta mới làm cho tánh giác có mặt thường trực được. Khi nó thực sự có mặt, sáu trần dù có xuất hiện trong sáu căn, cũng không tác động được sáu thức, nên tâm ta vẫn thường trực trong trạng thái không ưa thích, không ghét bỏ hay "trú xả," phù hợp theo lời Phật dạy trong kinh "Đáng được cung kính" vậy.

- Như thế, bằng cách thực hành tỉnh thức biết, chính ta đã ứng dụng phù hợp theo lời dạy của Phật trong pháp CHÁNH NIỆM VÀ TỈNH GIÁC. Vì sao? Vì muốn thành tựu chánh niệm ta phải ứng dụng kỹ thuật tỉnh thức; muốn thành tựu tỉnh giác, ta phải áp dụng biết không lời.

 

HẾT

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
02 Tháng Giêng 20256:31 CH(Xem: 196)
Hôm nay ngày 29/12/2024 nhằm ngày 29/11 năm Giáp Thìn, Tưởng niệm ngày Thầy xa chúng con tròn năm năm. Chúng con đồng quy tụ về đây thành tâm đảnh lễ Phật, Tổ và Thầy một vị Ân Sư tôn kính. Lời tri ân của chúng con xin được thay thế bằng sự cố gắng tu tập theo đúng Chánh pháp. Nguyện sống sau cho xứng đáng là đệ tử của Thầy.
19 Tháng Mười Hai 20249:32 CH(Xem: 430)
Do vậy, chúng ta có thể nói, tuệ trí (insight) là nền tảng của tiến trình tu tập của mình từ bước đầu, nó sẽ phát huy năng lực sâu sắc hoàn chỉnh lần tới Tuệ bát nhã (wisdom) và Tuệ bát nhã siêu vượt hơn cho tới vô biên.
10 Tháng Mười Hai 20247:02 CH(Xem: 612)
Do đó nếu không có đức Phật chỉ dạy phương thức tu học (ý nghĩa thứ 2 của Pháp) thì mãi mãi hiện tượng chỉ là hiện tượng, chúng ta không thể nhận ra những bản thể (ý nghĩa thứ 1 của Pháp) ẩn tàng bên trong hiện tượng (ý nghĩa thứ 3 của Pháp).
11 Tháng Mười Hai 20241:10 CH(Xem: 297)
Qui ouvre les portes du paradis ou de l’enfer? C'est nous, c'est notre choix. Nous sommes maîtres de notre vie. Rappelons-nous toujours cela. Le flux de la vie est toujours le même depuis la nuit des temps. Comment nous voyons la vie? Quelles expériences retenons-nous de notre vie? Ce sont celles que nous voyons, celles que nous aimons, celles que nous voulons, celles que nous choisissons.
09 Tháng Mười Hai 20249:11 CH(Xem: 259)
Pháp tu “Tứ Chánh Cần” gồm bốn điều cần tu tập. Hai điều nhằm đoạn trừ pháp Ác và hai điều xiển dương pháp Thiện, nên hành giả cần có tuệ trí phân biệt thế nào là Thiện pháp, thế nào là Ác pháp.
04 Tháng Mười Hai 20248:41 SA(Xem: 417)
Juste une observation pure, ouvrir les yeux et percevoir l'objet tel qu'il est. Que ce soit, en conscience verbale ou non verbale, l’esprit reste pur, calme et objectif. Il s’agit du mental vrai, dans lequel les préceptes, la contemplation, le samatha, le samadhi et la sagesse sont pleinement présents.
01 Tháng Mười Hai 202412:43 CH(Xem: 295)
Erhabener, ich gebe meinen Geist auf und lebe nach dem Geist dieser Ehrwürdigen. Erhabener, obwohl wir verschiedene Körper haben, haben wir den denselben Geist.
14 Tháng Mười Một 20247:03 SA(Xem: 576)
Q.H, Đạo tràng Paris rút tỉa, sắp xếp, cắt dán lại những thuật ngữ Thiền từ các sách mà Thầy đã xuất bản - Trương Đăng Hiếu, Đạo tràng Nam Cali đánh máy, trình bày lại để làm tư liệu Anh chị thiền sinh cùng nhau tu học.
12 Tháng Mười Một 20246:43 SA(Xem: 677)
Il est normal, naturel et raisonnable que des phénomènes apparaissent, changent et se terminent. Si nous pouvions comprendre cela, lorsque quelque chose apparaît ou disparaît, nous ne serions ni heureux ni tristes. Notre esprit est alors serein et paisible.
10 Tháng Mười Một 20244:35 CH(Xem: 534)
Đức Phật dạy khi một trong các loại tâm xuất hiện, chúng ta không làm gì khác, ngoài việc ghi nhận, quan sát, biết rõ sự hiện diện của nó mà thôi! Khi quan sát mà trong tâm không khởi lên bất cứ một ý nghĩ nào khác thì lúc đó hành giả đang trú trong tự tánh, tức tướng thật của tâm.
03 Tháng Mười Một 20249:06 SA(Xem: 496)
Wenn man den Titel dieses Artikels liest, denkt man vielleicht, dass er zu hochtrabend, umfassend und unrealistisch ist. Es stimmt, man kann dieses Thema nicht auf wenigen Seiten darstellen. Deshalb möchte ich mich heute nur auf „Die vier Grundlagen der Sympathie“ (catursaṃgrahavastu) aus buddhistischer Sichtweise beschränken und wie wir sie in unserem alltäglichen Leben umsetzen können.
23 Tháng Mười 202411:29 SA(Xem: 712)
VIDEO TƯỞNG NIỆM & HÌNH ẢNH Lễ CUNG RƯỚC TRÀ TỲ Thầy THÍCH KHÔNG NHƯ về Tổ Đình Thiền Viện Tánh Không tại Tổ Đình ngày 20 THÁNG 10, 2024
15 Tháng Mười 20245:01 CH(Xem: 844)
Học Phật, chúng ta thấy Ngũ căn-ngũ lực là năm yếu tố căn bản, năm yếu tố cốt lõi trên con đường tu học, mà đức Phật đã dạy cho một kẻ phàm phu mới bắt đầu, cho đến khi kết thúc trở thành bậc Vô học (A-la-hán).
09 Tháng Mười 202411:55 SA(Xem: 894)
Trích từ sách Luận Giảng Vấn Đáp về THIỀN và KIẾN THỨC THỜI ĐẠI của HT Thích Thông Triệt (2014) Luận giảng số 9
07 Tháng Mười 20248:46 SA(Xem: 1002)
Le contenu de la retraite de cette année est principalement un résumé des thèmes centraux du zen bouddhiste, de la première à la dernière étape. Chaque année, la retraite accueille de nouveaux participants, mais la plupart d'entre eux sont des méditants chevronnés, qui ont parfois 10 ou 15 ans de pratique ou plus. L'enseignement devait donc répondre aux exigences de chaque niveau d'apprentissage.
27 Tháng Chín 20243:30 CH(Xem: 929)
Das Dharmator ist das Tor zum Eintreten, um zu lernen, zu verstehen und zu praktizieren vom Dharma. Der Dharma ist die Wahrheit, wie auch alle Phänomene der Welt. Demnach können wir uns zwei verschiedene Dinge vorstellen. Nein, sie sind nicht verschieden. Die Wahrheit wird durch jedes weltliche Phänomen offenbart, und jedes weltliche Phänomen ist die Wahrheit. Das Selbst ist auch die Wahrheit, und die Wahrheit offenbart sich auch durch das Selbst. Das Selbst ist auch die volle Wahrheit. Alle sind gleich: sie sind alle vergänglich, sie sind alle selbstlos, sie sind alle bedingt, sie sind alle leer, sie sind alle wie Illusionen, sie sind alle wie Unbeweglichkeit. Sie sind alle ungeboren, also unsterblich.
27 Tháng Chín 202410:34 SA(Xem: 788)
Ni Sư Thích Nữ Triệt Như KHÓA TU 3 NGÀY CỦA ĐẠO TRÀNG MONTREAL tại Chùa Địa Tạng ngày 16 tháng 6, 2024 (phần 2/2)
24 Tháng Chín 202410:34 SA(Xem: 1097)
Ni Sư Thích Nữ Triệt Như KHÓA TU 3 NGÀY CỦA ĐẠO TRÀNG MONTREAL tại Chùa Địa Tạng ngày 15 tháng 6, 2024 (phần 1/2)
18 Tháng Chín 20246:59 CH(Xem: 1141)
VIDEO: Khóa nhập thất song ngữ Việt- Pháp tại trung tâm Vaumarcus THỤY SỸ từ 18 đến 24 /8/ 2024 / Thực hiện Kim Thoa - Giọng ca Kim Mai
13 Tháng Chín 20248:36 SA(Xem: 1161)
La sangha de Paris a été créée très tôt, il y a environ 21 ans, la plupart des membres étaient des méditants chevronnés qui avaient étudié directement avec le Maître Fondateur. Sachant cela, chaque année, comme d'habitude, je m'y rendais avec la simple intention de leur rendre visite.
09 Tháng Chín 20241:38 CH(Xem: 1122)
Dans l'immensité de la mer, Il existe une petite île. Au lieu de s'y réfugier, Nous nous accrochons aux écumes...
05 Tháng Chín 20247:55 CH(Xem: 988)
Quán các cảm thọ, là quan sát, ghi nhận sự sanh khởi của Thọ uẩn: Đây là Thọ khổ, đây là Thọ lạc, đây là Thọ xả, đây là Thọ liên hệ vật chất, đây là Thọ không liên hệ vật chất. Niệm Thọ để thấy tính sanh diệt, vô thường, khổ, vô ngã của Thọ uẩn...
28 Tháng Tám 202410:43 SA(Xem: 1063)
Những đo đạt sau cùng của Thiền sư Thích Thông Triệt đã được thực hiện vào ngày 8 và 9 tháng 6 năm 2013. Tôi tường trình ở đây một số kết quả từ những thực nghiệm này kết hợp với kỹ thuật chụp ảnh chức năng cộng hưởng từ (f-MRI) và điện não đồ (EEG, 256 channels).
21 Tháng Tám 20248:40 SA(Xem: 1093)
La retraite de cette année à Toronto a réuni de nombreux méditants chevronnés y participent. Je sais qu'ils veulent simplement venir me rendre visite. Ils ont déjà maîtrisé le chemin de pratique, ayant étudié directement avec le Maître il y a de nombreuses années. C'est pourquoi, cette année, simplement un résumé de la théorie et de la pratique est présenté, afin d'aider chacun à maîtriser les étapes sans craindre de se tromper.
19 Tháng Tám 202411:57 SA(Xem: 997)
1- Hầu hạ cha mẹ là pháp được người hiền trí tuyên bố - Kinh BỔN PHẬN – Tăng Chi Bộ I, tr270 2.- Được chấp nhận ngang bằng với Phạm Thiên. Kinh BẰNG VỚI PHẠM THIÊN – Tăng Chi Bộ I, tr 684 3.- Làm sao trả ơn đủ cho cha mẹ - Kinh ĐẤT – Tăng Chi Bộ I, tr 118
15 Tháng Tám 20247:28 CH(Xem: 991)
Le perfectionnement spirituel est un processus qui va du simple au plus difficile; la connaissance associée est peu solide au début, mais elle est progressivement transformée par l'apprentissage pour devenir de plus en plus explicite et solide.
04 Tháng Tám 202410:43 SA(Xem: 1025)
Bằng những kỹ thuật của Thiền, ta có khả năng điều chỉnh được bệnh tâm thể. Chỉ vì bệnh tâm thể do những trạng thái tâm rối loạn như lo âu, sợ hãi, uất cảm, giận tức, sầu khổ, trầm cảm dây dưa gây ra. Trong lúc đó mục tiêu nhắm đến của Thiền, trước tiên là điều chỉnh những rối loạn của tâm. Thiền làm cho tâm được thư giãn, thanh thản, phấn chấn, và an tịnh.
04 Tháng Tám 202410:43 SA(Xem: 1359)
Uất cảm được định nghĩa là sự biểu lộ trạng thái tâm lý biến động, căng thẳng, không quân bình hay không xứng hợp giữa tri giác và nhận thức về những yêu cầu (demands), nhu cầu (needs), hay khả năng đối phó trước những tình hình khẩn trương đang xảy ra.
23 Tháng Bảy 20245:00 CH(Xem: 1315)
VIDEO& SLIDES: Ni sư Triệt Như Giảng Đại Chúng: TỔNG KẾT NHỮNG CÁCH TẬP THIỀN ngày 13 THÁNG 7, 2024 tại THIỀN ĐƯỜNG TÁNH KHÔNG Nam Cali
21 Tháng Bảy 202411:46 SA(Xem: 973)
Zum Schluss: Was ist es? Meine Antwort lautet vorläufig: Es ist die Natur.“ Es ist es".
16 Tháng Bảy 20247:58 CH(Xem: 1285)
VIDEO Ni sư Triệt Như Giảng Đại Chúng tại Thiền Viện Tánh Không ngày 6 tháng 7, 2024 với chủ đề: NGHỆ THUẬT SỐNG GIỮA THẾ GIAN
15 Tháng Bảy 20244:07 CH(Xem: 965)
Es gibt zwei Faktoren, die zum Leid führen können. Es sind „Bonsai“ und „Mein“. Weil er mein ist, bedauerte ich sehr, als er eingegangen ist. Weil er mein ist, habe ich ihn ins mein Zimmer gestellt. Nicht nur ich habe eine Vorliebe für die Bonsai-Bäume.
09 Tháng Bảy 20248:40 CH(Xem: 1156)
Pháp tu quán Thân giúp hành giả nhận ra cấu trúc của con người chỉ là Ngũ uẩn, là Danh sắc. Danh sắc thuộc pháp hữu vi, có điều kiện, nên Ngũ uẩn chịu quy luật Vô thường-Khổ-Vô ngã, và có mặt ở trên đời này theo chu kỳ Sinh-Trụ-Hoại-Diệt.
06 Tháng Bảy 20243:07 CH(Xem: 1172)
Ni sư Triệt Như Audio: Bài 237 - TỔNG KẾT VỀ DHAMMA 5-5-2024 TOULOUSE song ngữ
69,256