Triệt Như - Tiếng Hát Giữa Trời - Bài 10
Trong kinh sách thường giải thích Tham, Sân, Si là tam độc. Đó là ba thứ độc hại trong tâm con người. Chúng ta đã từng nghe giảng hay đọc trong sách về ý nghĩa của tam độc. Ở đây, mình chỉ nhắc lại tổng quát thôi.
Tham là khởi ý ham muốn có thêm cái gì đó, cái gì đó chắc không ngoài năm thứ quan trọng này: tài, sắc, danh, thực, thùy. Mà do đâu có ý tham, là vì mình ưa thích, là Ái. Tại sao lại có Ái? Là vì có Thọ lạc. Nếu có Thọ khổ, thì sinh ra ghét bỏ, bực bội, sân hận nổi lên.
Vậy từ Thọ phát khởi hai sắc thái của tâm thế gian. Thứ nhất, hể đúng ý mình thì sanh ra ưa thích, quyến luyến, tưởng nhớ, đam mê, tức là Ái và hỷ lạc, có thể đi tới khát ái, rồi lậu hoặc, hay tùy miên, ghi thành ấn tượng sâu sắc trong tâm thức hay tàng thức, để mang qua những đời sau. Thứ hai là không đúng ý mình, hay trái ngược với ý mình thì phát khởi sân hận, bực tức, phiền não, cũng ghi thành ấn tượng sâu sắc trong tâm thức của mình, thành nội kết, ghi lại trong tàng thức, cũng mang qua những đời sau, như là lậu hoặc và tùy miên. Trong kinh có kể thêm sắc thái Thọ thứ ba là không khổ không lạc. Chư Tổ giải thích không khổ không lạc là vô ký, tâm lờ mờ, không rõ ràng là hỷ lạc, ưa thích hay ghét bỏ, sân hận. Nếu là không màng tới cảnh bên ngoài, trong tâm cũng không nhận biết rõ mình như thế nào, như là sống hời hợt, vội vã thì ta có thể tạm nói sống mà không có chánh niệm, không biết rõ cảnh, không biết rõ mình, thì xem như sống trong vô minh: “Mờ mờ nhân ảnh như người đi đêm”.
Tuy nhiên, nếu chúng ta giải thích chỗ “Thọ không khổ không lạc” là cái Thọ khách quan, thanh thản thì đây là tâm của bậc thánh. Chỗ khác nhau của trạng thái “không khổ không lạc” của tâm thế gian và tâm bậc thánh là tâm bậc thánh có cái Biết rõ ràng, đúng biết đúng, sai biết sai. Tâm bậc thánh không khởi ý tham muốn, không luyến ái, không vương vấn cái gì trong đời, chỉ một lòng hướng về tam bảo. Như vậy dù có tiếp xúc trong đời, có Thọ, nhưng là Thọ không lạc không khổ. Không phải vô ký, không có vô minh.
Qua những lý luận trên, mình thấy ba trạng thái Tham- Sân- Si liên hệ nhau rất mật thiết. Chúng ta cũng có thể lý luận theo cách khác. Nguồn gốc của tham là do vô minh. Nguồn gốc của sân cũng là do vô minh. Kết quả của tham hay sân là tạo ra xung đột, tranh chấp, khổ đau, cũng là vô minh vì không biết trước kết quả của tham hay sân là nguy hiểm, hại mình và hại người, nên không dừng lại lòng tham hay lòng sân.
Vậy nói gọn lại, mình có thể vẽ một vòng tròn khép kín cho ba độc này.
Vô minh- Tham- Sân- Vô minh/Si
Cũng vì thế, mà mắt xích thứ nhất của Mười hai nhân duyên là Vô minh. Vô minh là đầu mối của luân hồi tái sinh triền miên của con người. Muốn chấm dứt dòng sinh tử này, là con đường đi của bậc thánh, Bát chánh đạo hay Bát thánh đạo, mà bước quan trọng nhất, được kể hàng đầu, là Chánh kiến, hay chánh tri kiến, tức là trí tuệ hiểu biết chánh pháp và thực hành chánh pháp.
Nói như vậy, thiệt ra chúng ta chỉ trình bày hời hợt vì tổng quát, trên bề mặt của vấn đề.
Chánh pháp có rất nhiều mức độ, đơn giản, cho tới thâm sâu không cùng tận. Tâm và trí của con người cũng vô số mức độ, vô số trạng thái khác nhau. Căn cơ mỗi người cũng không ai giống ai. Hoàn cảnh sống cũng thay đổi không lúc nào giống lúc nào. Có khi mình học, hiểu những chân lý Đức Phật giảng dạy, suy tư, ghi nhớ, giải thích ra lưu loát đúng theo kinh sách, vậy mà gặp cái gì đó trái ý, mình vẫn tuôn ra những suy nghĩ quanh co, những lời chê bai đả kích người khác.
Sự kiện này, cho ta bài học gì? Tại sao mình tự nhận là con của Phật, mình vẫn biết mỗi người là vị Phật tương lai, mình có “đầy đủ đức tướng trí tuệ Như Lai”, mấy mươi năm mình đã tưởng là mình tu đúng, là người tốt. Sao có lúc mình lại bung ra những điều xấu nhất bên trong tâm cho nhiều người thấy?
Chỉ là vì mình chưa thực sự chuyển hóa cái “thấy biết” của mình. Cái bản ngã của mình vẫn còn, và bị che giấu, được cất giữ sâu kín bên dưới tâm, mình không nhìn thấy. Cái bản ngã được người khác chìu chuộng, khen thưởng, mình cảm thấy vui vẻ, an lạc, nên tưởng là mình không còn cái ngã nữa. Một khi cái ngã bị đụng chạm đến, lập tức nó bung lên, càng bị đè nén, che giấu, khi bung lên càng mạnh, như núi lửa, thiêu đốt thân và tâm trí của mình.
Trong kinh, đức Phật diễn tả hình ảnh này như “ con cá bị đưa lên khỏi nước”, nó vùng vẫy, quẫy đầu quẫy đuôi, điên loạn. Đây là hình ảnh cái tâm sân của chúng ta. Không cần biết tới hậu quả của lời nói, cử chỉ hành động của mình lúc nổi sân như thế nào.
Đức Phật dạy khi đi đường gặp con chó điên, gặp con voi dữ, gặp đám người đánh nhau, thì ta phải tránh xa.
Suy gẫm kỹ, những nỗi sân hận của mình đều là do sự không vừa ý, sự bất mãn, tức là ta đã khởi ý mong muốn điều gì đó mà không được. Tương tự nỗi khổ thứ mười hai trong Khổ đế: cầu bất đắc. Khi có mong cầu, là ham muốn, là tham hay ái. Mà cũng là do vô minh nên mới tham cầu, và sân hận. Cho nên tham, sân, si hòa quyện vào nhau, không tách rời được. Mỗi cái vừa là nhân vừa là quả của nhau. Do vậy, ta không cần ra công tận trừ ba thứ độc này, mà ta chỉ cần chuyển hóa hay trừ diệt một độc, thì hai độc kia cũng chấm dứt theo. Thí dụ, nếu có trí tuệ hiểu suốt tất cả đều thay đổi, không bền chắc, hay vô thường, thì ta sẽ lần lần bớt tham, bớt nắm chắc cái gì của đời, ta sẽ không còn sân hận khi đời thay đổi, hay lìa xa ta. Thí dụ nếu ta không tham muốn điều gì, thì ta sẽ không hỷ lạc khi đạt được, và cũng không bất mãn khi không đạt được, tâm thanh thản và có trí tuệ sáng suốt. Thí dụ khi ta không nổi sân là ta đang làm chủ cảm thọ của mình, là ta không si ám, mà có trí tuệ, cũng vì có trí tuệ nên ta đã không mong cầu điều gì, ngay cả mong cầu người kia lương thiện, hoàn hảo.
Kết thúc lại, tham, sân, si thiệt ra chỉ là một trên mặt hiện tượng. Trên mặt bản thể cũng là một, chúng đều là pháp do duyên sanh, chúng sẽ thay đổi, sẽ tăng trưởng hay sẽ hoại diệt do nhiều nhân duyên và chúng có thể chấm dứt, hay lại tái sinh. Cho nên tham sân si cũng biểu hiện tất cả những chân lý thường hằng của vạn pháp. Chúng là vô thường, là khổ, là vô ngã, bản thể trống không, như huyễn mộng, là như như bất động, là bình đẳng với vạn pháp.
Thiền viện, 17- 4- 2022
TN

Thân chạm mặt đất ,bốn mùa tự nhiên
Không phải trên mây
Khô khan dưỡng khí ! Anh Huệ Quang
Tham sân si từ đó sanh ra.
Lời tiếp lời, chạy theo quên mất chân tâm.
Quay lại xem, tâm nào đã khởi ?
Tham sân si không dính đáng đến có lời hay không lời , dễ gì biến mất , chưa đoạn trừ được chúng đừng nói tới như huyễn !
Không nói như một khúc gỗ cả đời được không chị Huệ Quang ?
Con trình bày quang điểm của con.
Đức Phật chứng ngộ chỉ cho chúng con thấy thực tại của thế gian, chân lý thực tại:
Thế gian này luôn thay đổi, không thực chất tính, cái này có, cái kia có, cái này không, cái kia không, tương quan nhân quả, luân hồi sinh tử . Hiểu và trải nghiệm được chân lý Đức Phật chứng ngộ nghĩa là chúng con tự giải phóng được tư tưởng lầm mê của chúng con ở thế gian này. Đó là tại sao con hiểu được người ta thường hay nói ,"Đức Phật đưa ra con đường giải thoát, giác ngộ".
Chúng con là Phật tử thực hành, chứng nghiệm chân lý Phật chỉ ra thì đỡ khổ, thoát khổ, thấy được
chân lý thực tại . Trong khi trong thế gian này vẫn còn hụp lặng mãi trong tranh chấp, chiếm hữu, giáo điều....
Con
Như quỳnh
Chúng đứng trên đám mây có lời.
Không còn lời thì chúng ở đâu ?
Dù Tham sân si trong tâm biến mất,
Nhưng di chứng trong thân vẫn còn,
Ngũ tạng đã tổn thương.
Nhân đã mất nhưng quả vẫn còn !
Người vô minh sợ quả,
Kẻ có trí nên sợ nhân.
Không nói thì không nhân.