Tưởng niệm ân sư
KÝ SỰ CHUYẾN ĐI BARCELONA
6/7/2010:
6:30 sáng, Thầy và 4 thiền sinh Dung, chị Minh Anh, chị Minh Thanh và tôi rời nhà ra gare xe lửa đi Barcelona. Xe khởi hành lúc 6:54 giờ. Khi xe bắt đầu chạy, mọi người đều thở phào vì không bị trễ xe, tinh thần thầy trò có phần thơ thới, ngắm nhìn phong cảnh 2 bên , nhiều hoa dại màu đỏ, tím đang nở chen lẫn với những cánh cỏ xanh tươi tạo nên một quang cảnh thật đẹp.
Ba tiếng sau chúng tôi đến Narbonne, theo như chương trình hoạch định thì từ Narbonne sẽ đổi xe lửa đi thẳng đến Barcelona vào khoảng 12 giờ trưa, nhưng vì thời gian chuyển tiếp này chỉ có 10 phút, quá ngắn, thầy trò khệ nệ gồng gánh thức ăn, hành lý thì bị trễ chuyến xe, đành phải đổi lộ trình khác. Từ Narbonne chúng tôi phải lấy xe lửa đi Cerbere mất 20 phút, đợi 3 tiếng chờ xe khác đi Portbou rồi mới từ đó đi Barcelona. Trong lúc chờ đợi ở Cerbere, tôi và Dung có thì giờ đi hái hoa bắt bướm và gậm bánh mì. Đi Portbou chỉ mất có 4 phút, nơi đây là biên giới giữa Pháp và Spain thành khi vào nhà gare họ xét passport. Đợi tại đây thêm 1 tiếng nữa mới có xe đi Barcelona. Thầy trò tạm ngủ trưa trên ghế đợi, trông giang hồ lắm.
6/8/2010
Chợt thức giấc nhìn đồng hồ mới chỉ có 3:30 giờ sáng, cố gắng ngủ thêm nhưng không được, đành ngồi dậy chuẩn bị vài việc cho sáng nay vì tôi phải đến hotel để cùng Thầy và Dung vào đại hội. Chị Minh Anh cũng dậy từ 4 giờ sáng để chuần bị thức ăn cho ngày hôm nay cho Thầy, Dung và tôi. Chị phải chuẩn bị sớm vì khi tôi vào đại hội phải xách thức ăn đi theo luôn.
Người tôi vẫn còn mỏi mệt vì ngủ ít. Trên đường đến hotel tôi xách 2 túi lớn, một bên là computer, máy chụp hình, máy quay phim, một bên xách thức ăn , từ nhà đến trạm metro 10 phút đi bộ, rồi từ trạm metro đến hotel cũng mất 10 phút đi bộ, ouải quá. 8:15 tôi đến hotel, Thầy và Dung vừa đi ăn sáng về, Thày hỏi tôi ăn sáng chưa, tôi thưa Thầy “chưa”, Thầy bảo tôi ăn khúc bánh mì kẹp cheese còn dư lại từ đêm trước, may quá. Tôi vội vàng ăn rồi uống một tách cà phê. Sau khi ăn xong, người tôi đỡ mệt, 9:30 giờ Thầy trò đi bộ vào hội trường.
OHBM: là chữ viết tắt của Organization for Human Brain Mapping. Năm nay là năm thứ 16, mỗi năm họ tổ chức đại hội tại một quốc gia khác nhau. Số người tham dự rất đông, khoảng trên 3000 người đủ mặt từ các nước, đa số là người trẻ, trong đó đăc biệt chỉ có một thầy tu.
Sự trình bày các đề tài nghiên cứu được chia ra làm 2 nhóm:
. Nhóm thứ nhất: gồm 1227 đề tài, mỗi đề tài được trình bày trên một trang poster thẳng đứng, chiều cao độ 2m, chiều ngang độ 1m. Đề tài não bộ của thầy mình mang số 171 được đăng trong nhóm này vào 2 ngày: 6/7 và 6/8, (mỗi ngày vào lúc 12:30 đến 13:30 giờ cho những posters mang số lẻ, từ 14:45 đến 15:45 giờ cho những posters mang số chẵn). Có một người đại diện cho đề tài đứng trước poster để trả lời những thắc mắc của khán giả. Ông Ranganatha đảm nhận vai trò này cho prọject não bộ cuả thiền Tánh Không cuả mình.
. Nhóm thứ hai: gồm 1588 đề tài, được trình bày vào ngày thứ 4 và thứ 5. Sự trình bày được phối trí theo mỗi loại chủ đề khác nhau cho cả 4 ngày ( 2 nhóm) – xem attachment –
Vào buổi trưa Thầy vẫn ở lại, ăn bánh mì tay cầm. Tôi và Dung về hotel ăn cơm, nghỉ trưa, sau lunch, hai đứa trở vào tìm Thầy và tiếp tục chụp hình. Ba Thầy trò vào dự những buổi thuyết trình về những đề tài vừa mới khám phá về não bộ và kỹ thuật khoa học. Vài đề tài tiêu biểu như: sự hoạt động của Dopamine (nhưng họ chưa khám phá làm thế nào để được bài tiết Dopamine), họ nói về những căn bệnh: kinh phong, mất trí nhớ, bệnh Parkinson, bệnh tiểu đường,…
Các posters trình bày về Thiền gồm có:
Nói tóm lại, cho đến ngày nay, khoa học chỉ khám phá được sự “Ý thức Biết” chứ chưa đến được “Nhận thức Biết”.
Đến 6 giờ chiều, ông Ranganatha cho tôi tháo gỡ và giữ lại poster của mình vì nếu sau 9:30 tối, nếu không lấy về thì họ sẽ throw away dọn chỗ cho các trình bày ngày thứ tư và thứ năm.
Song song với việc trình bày các poster, họ còn có các gian hàng bán máy móc phục vụ cho nghành não bộ như của Siemens, Philips,…làm cho Thầy cũng thích lắm. Thầy dừng lại tại một gian hàng bán máy đo não bộ (tôi quên mất tên rồi) hãng này từ Đức Quốc tới, giá cái máy có sức đo từ 32 đến 64 channels (kim cài trên đầu) khoảng 35,000 Euros (khoảng 42,000 $), Thầy muốn mua một cái. (họ sẽ liên lạc với Thầy sau tháng 6).
Trong khi đang đứng hỏi về máy móc, may quá vợ chồng Huệ Châu đến, tôi bèn bàn giao lại cho 2 anh chị này lo cho Thầy, còn tôi đi metro về nhà trọ, với đôi chân đau, cứ nghĩ là sẽ không bao giờ về đến nơi được.
Cũng như đêm trước, đêm nay về đến nơi là leo lên giường ngủ ngay. Đến 10 giờ tối, hai chị gọi tôi dậy ăn tối, ăn xong tôi lại ngủ tiếp đến 4 giờ sáng, tiếp tục chuẩn bị để đến hotel.
6/9/2010:
Sáng nay tôi phải đến sớm hơn sang hôm qua vì tôi có hẹn với Thầy và Dung cùng nhau xuống cafeteria ăn sáng lúc 7 giờ.(ăn sáng đã được dự trù sẵn khi ghi danh). Thức ăn ngon và phục vụ chu đáo. Cũng như mọi sáng, chị Minh Anh thức dậy 4 giờ sáng để nấu cơm , sửa soạn thức ăn cho tôi đem theo.
Chương trình ngày thứ 4 và thứ 5 cũng giống như ngày thứ ba, ngày nào Thầy cũng ở lại, trưa thì ăn bánh mì với cheese và chuối , nước uống thì có cà phê, trà , nước lạnh do ban tổ chức cung cấp, chiều về thì Thầy ăn cơm nguội với đồ kho, maggi với ớt hoặc mì gói, thật là đạm bạc.
Vào buổi chiều ngày thứ tư, thầy trò có gặp ông ERB, có bàn thảo về chuyến đi Mỹ vào tháng 8 của ông ấy.
Buổi sáng lúc rời hotel thì trời bắt đầu mưa, kéo dài cả ngày. Bây giờ là 5 giờ chiều, có nắng lên, tôi với Dung đưa Thầy về hotel , thầy trò cùng đi trong một tinh thần tự tin và an lạc, để chuẩn bị cho ngày hành quân kế tiếp.
Sauk khi lo cho Thầy dùng cơm và đi nghỉ, tôi và Dung trở lại hội trường tiếp tục hành quân chụp hình và download poster. Sau đó 8 giờ tối về lại hotel thì đã có vợ chồng Huệ Châu đến thăm Thầy. Tối đó, đáng lý tôi và Dung đi night club do đại hội đãi, nhưng Huệ Châu rủ đi ăn kem dạo phố nên hai đứa tôi xiêu lòng, cùng nhau xuống phố La Rambla.
6/10/2010:
Hôm nay là ngày cuối của đại hội, trời mưa vào buổi sáng, Thầy đi bộ ra hội trường không có nón, không có dù, tôi sợ Thầy bị lạnh và trơn trợt nhưng Thầy vẫn tung tăng đi, nơi hội trường có phần vắng hơn mấy ngày trước. Thầy trò vẫn đi chụp hình và download e-poster. Vào buổi trưa, Thầy có gặp lại ông ERB, Thầy muốn ông ấy sửa lại vài từ ngữ cho phù hợp với thuật ngữ Pali.
Sau lễ bế mạc, 3 thầy trò cùng về hotel. Bây giờ nắng đã lên lại, Thầy vui vẻ và thơ thới lắm. Thầy nói Thầy rất mãn nguyện và đã học hỏi rất nhiều trong chuyến đi. Dung cho Thầy nghỉ sớm, rồi sau đó 2 đứa lại xuống phố một lần nữa để chụp vài tấm hình ở cảng Barcelona vì tối qua đến trễ quá không chụp được.
6/11/2010:
Sáng nay tôi cùng Thầy bay về Paris, còn Dung và chị Minh Anh đi xe bus về Toulouse để sáng thứ bẩy Dung bay về Cali.
Trên chuyến bay về Paris, có một cô người Brazilian ngồi cạnh tôi với Thầy. Cô ấy hỏi tôi về Thầy, sau khi biết Thầy là thiền sư, cô ấy muốn được xin theo học sau này khi cô có điều kiện.
Về đến phi trường CDG ở Paris có anh Quang Đạo, chị Minh Trí , anh Tâm (tài xế), anh Tuệ Lạc và anh C.H.Hải (tân thiền sinh) ra đón. Mọi người cùng về nhà anh Quang Đạo, cũng là trụ sở hội thiền Tánh Không Paris. Tại đây Thầy đã đươc sư cô Triệt Như cùng các thiền sinh cũ và mới (đang học lớp Căn bản) long trọng tiếp đón.
Paris, ngày 18 tháng 6 năm 2010
Huệ Nhã
Đạo Tràng Nam Cali