HỘI THIỀN TÁNH KHÔNG TRUNG ƯƠNG

HT Thích Thông Triệt: GIÁO TRÌNH_Các BÀI ĐỌC THÊM: TẠI SAO TU THIỀN PHẢI DỪNG VỌNG TƯỞNG

18 Tháng Tư 202211:18 SA(Xem: 2325)

TẠI SAO TU THIỀN PHẢI DỪNG VỌNG TƯỞNG

Trích trong bài đọc thêm "Tại sao tu thiền phải dừng vọng tưởng"

do Hòa Thượng Thích Thông Triệt biên soạn

 

sư phụ

 

 

Tất cả ý nghĩ tạo thành vọng tưởng, kể cả sự suy nghĩ đều được lập thành dựa trên sự nói thầm hay đối thoại thầm lặng trong não. Không có sự nói thầm hay đối thoại thầm lặng, vọng tưởng hay suy nghĩ không được thành lập. Nếu nắm vững nghĩa này, ta sẽ biết cách thực hành "Không Theo Vọng." Còn không nắm được nghĩa đàng sau của vọng tưởng, ta vẫn chơi trò chơi cút-bắt với vọng.

Hỏi: - Thế nào là chơi trò chơi cút-bắt với vọng?

Đáp: - Đó là ta dùng nhiều lời có nội dung, rồi nói lên lời đó để hy vọng dừng được vọng. Đây là chơi trò chơi cút-bắt với vọng. Vì ta không bao giờ dừng được vọng với lời có những ý nghĩ kèm theo để hy vọng là vọng tự dừng.

Thí dụ như nói: "Ta hãy quay đầu lại, đừng phóng tâm ra ngoài. Càng ngó ra ngoài, ta càng theo vọng."

Hoặc nói: "Cái khổ của con người là do chúng ta không biết buông vọng. Nó không phải là mình mà chúng ta cứ nhận giặc làm con. Như vậy, chúng ta làm sao giải thoát được. Chúng ta biết nó là giả rồi, nó là giặc rồi, chúng ta đừng theo nó nữa ! Chúng ta hãy buông nó đi ! "

Hoặc: "Biết tất cả danh vọng, địa vị, của cải trên thế gian này đều giả, ta chớ nên theo nó. Buông nó đi để quay về với chân tâm. Đừng chạy theo nó nữa. Nó là vọng."

Ba thí dụ trên là ba "nhóm từ đùa giỡn với vọng." Nếu ta cứ đặt ra nhiều lời mang nhiều ý nghĩa cao siêu hay hàn lâm để hy vọng dừng được vọng, thì đây là ta chơi trò chơi cút-bắt với vọng. Ta không làm sao dừng được vọng. Ta buông được vọng này, vọng khác lại trồi lên ! Chỉ vì vọng chính là lời. Ta càng dùng lời để hy vọng đạt được không theo vọng, ta càng theo vọng liên tục.

Tóm lại, bất luận chủ đề Thiền nào, ta cần nắm rõ nghĩa đàng sau của dụng ngữ hay thuật ngữ, rồi sau đó thiết lập kỹ thuật để thực hành. Nếu chỉ nắm nghĩa đàng trước, ta sẽ không bao giờ đạt được mục tiêu. Ta chỉ chơi trò chơi cút-bắt với niệm, hoặc giải thích dần lân về ý nghĩa dụng ngữ hay thuật ngữ Thiền. Trên mặt kiến thức, nghĩa đàng trước rất hay, nhưng trên mặt thể nghiệm hay thể nhập chủ đề, ta không làm sao "uống nước nóng lạnh tự biết" bằng những lời giải thích dần lân được.

Hỏi - Ai khởi vọng ?

Đáp: - Vọng khởi dưới hai dạng. Dạng ta tự nói thầm về nhiều chủ đề nào đó, và dạng vọng tự khởi lên từ các vùng ký ức vận hành, ký ức dài hạn, hay ký ức ngắn hạn. Đây là dạng ngoài tầm kiểm soát của ta. Ta không muốn khởi mà vọng vẫn cứ khởi. Cuối cùng ta bị bao vây trong mạng lưới vọng mà không hay biết.Ta có thể lập sơ đồ như sau:


các loại ký ức

 


Ký ức vận hành (Working memory) được xem như ký ức ngắn hạn vì nó không giữ các dữ kiện lâu dài. Vị trí của nó đóng tại vùng tiền trán. Vì chúng ta có 6 căn, nên nó có 6 loại ký ức vận hành. Nó giữ hình ảnh, dữ kiện trong tâm trong thời gian ngắn, như đọc sách, xem truyền hình, nghe băng nhạc. Nó nhận và giải mã dữ kiện ra thành hình ảnh trong tâm. Hình ảnh này chỉ được nhận ra bằng nhận thức ấn tượng. Nó cũng giúp chúng ta nhớ bằng suy tính hay tính rợ (tính mà không cần viết ra thành lời).

Các định khu ký ức thường khởi lên tạp niệm lăng xăng trong lúc ta ngồi thiền. Đây là những niệm ngoài phạm vi kiểm soát của ta. Chúng có khả năng dệt thành những mẩu chuyện đối thoại thầm lặng suốt thời thiền.

Riêng các phạm vi suy nghĩ, lý luận, trí năng, và ý thức là do ta khởi niệm nói thầm hoặc đối thoại thầm lặng.

Hỏi: - Vọng khởi ra như thế nào ?

Đáp: - Nó khởi ra bằng dạng nói thầm dưới nhiều chủ đề khác nhau thuộc các phạm vi liên hệ đến đời sống của từng thành phần giai cấp, giới tính, chủng tộc, nghề nghiệp, truyền thống, và tín ngưỡng của con người trên ba thời khác nhau.

Thí dụ

-    Người hấp thụ truyền thống Đông phương khởi vọng khác người có truyền thống giáo dục Tây phương.

-   Hiện tại khởi khác, tương lai khởi khác, quá khứ khởi khác.

-   Nam khởi vọng khác hơn nữ.

-   Già khởi vọng khác hơn trẻ.

-   Người tu Thiền khởi vọng khác hơn người tu Tịnh.

-   Người đạo Phật khởi vọng khác hơn người Hồi giáo.

-   Nhà nông khởi vọng khác hơn nhà văn.

-   Họa sĩ có những vọng tưởng không giống như thi sĩ.

-   Nhà báo khởi vọng khác hơn người làm công tác xã hội.

-   Nhạc sĩ khởi vọng bằng những khúc nhạc hùng hay êm dịu.

-     Người làm kinh tế thì vọng tưởng xoay quanh những vấn đề giá cả thị trường hay những mức độ sản xuất phù hợp với số nhu cầu của quần chúng.

-   Kẻ trộm khởi vọng khác hơn kẻ cướp.

-    Người tu theo Mật tông có những vọng tưởng khác hơn người tu theo Tịnh độ tông, v.v...

Tóm lại, vọng tưởng khởi tùy theo nhu cầu của người khởi vọng. Những nhu cầu này luôn luôn dựa trên các nguyên tắc:

1) Khi các căn tiếp xúc, hay chạm trán, hoặc đối diện trực tiếp với các trần, tức môi trường, tình huống, hay hoàn cảnh xã hội, thiên nhiên.

2) Sau đó vọng được thiết lập hay khởi ra.

3) Nội dung của vọng luôn luôn phù hợp theo trí tuệ và khuynh hướng nghề nghiệp hay tâm lý, nói chung là phù hợp theo từng căn cơ của người khởi vọng.

4) Vọng luôn luôn được biểu lộ trên ba phạm trù thời gian: quá khứ, hiện tại, và vị lai.

5) Nhưng điểm giống nhau của sự khởi vọng là tất cả đều bắt đầu bằng sự nói thầm hay đối thoại thầm lặng, rồi sau đó nói ra thành lời hay bằng chữ viết, hoặc cử chỉ tay chân.

Hỏi: - Động cơ nào thúc đẩy vọng khởi ?

Đáp: - Đầu mối vọng tưởng khởi là do ba tác nhân. Tác nhân thứ nhất là tâm ngôn chưa yên lặng, nên niệm nói thầm cứ tự do khởi lên. Đây là do quán tính giải mã của vùng Broca. Khi các căn tiếp xúc đối tượng, nó cứ giải mã liên tục làm cho ta không bao giờ ngưng nói thầm.

Tác nhân thứ hai là từ các vùng ký ức tự khởi lên những loại vọng tưởng tạp nhạp. Đây là lúc tạp niệm lăng xăng dao động khởi lên ngoài sự kiểm soát của tự ngã do các tín hiệu niệm (thought signal) phát ra từ các vùng ký ức. Hình ảnh quá khứ và niệm nói thầm cứ luân phiên đan kết trong tâm.

Tác nhân thứ ba là do tập khí hay lậu hoặc tác động vào tâm thức, khiến tâm ta phải dao động, khởi niệm qua sự biểu lộ bằng các tiến trình ngôn ngữ: hết tính chuyện này đến lo chuyện khác. Thèm muốn, ham muốn, khao khát, phóng tâm không bao giờ yên lặng trong sát na thời gian. Tâm ba thời khởi lên từ nguyên lý này. Quá khứ thì luyến tiếc, hối hận; hiện tại thì dính mắc với sở thích, thói quen; tương lai thì nguyện vọng, hoài bão. Do đó, chính tập khí hay lậu hoặc là nhân tố thúc đẩy tâm khởi lên vọng tưởng trong ba thời quá khứ, hiện tại, và tương lai. Ba loại nghiệp thiện hay ác của thân, lời, và ý cũng tiếp tục được xây dựng trên nguyên lý này. Tâm "ở đây và bây giờ" không thể nào có mặt được.

Tập khíthuật ngữ trong Phật giáo Phát triển, còn lậu hoặcthuật ngữ trong Phật giáo Nguyên Thủy. Cả hai đều là nhân tố cơ bản của tiến trình thiết lập thân nghiệp, lời nghiệp, và ý nghiệp của con người.

Cả hai thuật ngữ tập khílậu hoặc chỉ cho những quán tính đam mê, ghiền nghiện dục lạc thế gian vốn tiềm tàng trong nghiệp thức con người. Từ ham mê tiền bạc, tài sản, của cải vật chất, say đắm sắc dục, ham thích ăn uống, ngủ nghỉ, khoái thích địa vị, danh thơm tiếng tốt, say mê các quyền lợi vật chất hay tinh thần đến đam mê những quan điểm, quan niệm thuộc các phạm vi triết học, văn chương, văn hóa, văn nghệ, học thuật, tín ngưỡng, xã hội, chính trị, kinh tế... Chúng đã ăn sâu trong tâm thức ta từ khi ta có ý thức sống trên thế gian này. Chúng tạo thành những thứ ghiền nghiện, đam mê dục lạc, uy quyền, danh lợi mà tất cả thành phần giới tính, già trẻ, giai cấp, và thành phần tu sĩ hay không tu sĩ khó từ bỏ được. Chính vì thế, vọng tưởng cứ khởi ra mãi qua những hình thức suy nghĩ, nói năng, và hành động của ta. Tâm cứ di động theo những đam mê, ghiền nghiện nói trên để tìm cách thỏa mãn những khao khát. Chỉ khi nào ta sạch hết tập khí/lậu hoặc, vọng tưởng mới không còn khởi lên. Khi tập khí/lậu hoặc còn, vọng tưởng còn khởi. Vì vậy, trên phương diện này, chư Tổ dạy ta tu để dừng vọng hay không theo vọng để tâm được giải thoát, tri kiến được giải thoát.


Chung quanh vấn đề giả và thật

Hỏi: Tại sao chư Tổ nói vọng tưởng là "giả, không thật," còn chúng ta cho rằng vọng là "thật ?"

Đáp: - Đứng trên mặt thể tánh hiện tượng, chư Tổ nói vọng tưởng là "giả," "không thật," vì các ngài nhận ra bản thể nó "Trống không," hay "Không" (Śūnyatā = Emptiness), nên nói nó "không thật." Nó "hư giả." Và sự hiện hữu của nó là do duyên sinh. Tức là do nhiều điều kiện kết hợp lại để lập thành vọng tưởng trong tâm chúng ta. Chứ không phải vọng tưởng tự nhiên mà có. Vì thế, sự có của vọng tưởng là “giả có”. Nhưng thực chất tính của nó là "Không." "Không" là thể tánh hay bản thể (nature) của nó. Trái lại, trên mặt tác dụng, ta thấy nó không giả. Nó có thật.

Thí dụ, buồn, vui, sầu, khổ, thương, ghét, lo âu, sợ hãi, sân hận là những phản ứng của tâm. Những phản ứng này có thật. Bởi vì chính ta biểu lộ những sắc thái xúc cảm đó ra ngoài mặt, lời nói và hành động cử chỉ. Ta không thể nói nó "không có !" Đồng thời cũng do ta kinh nghiệm được, cảm nhận được, thấy được, biết được những sắc thái xúc cảm đó xảy ra như thế nào trên thân và tâm của ta.

Cho nên trên phạm vi cảm nhận hay cảm thọ này, ta nhận ra vọng tưởng là "thật có." Nếu nói rằng nó không có tại sao nó chi phối hay tác động tâm ta, đưa đến ta phải biểu lộ những sắc thái xúc cảm khác nhau đối với người chung quanh hay đối với đối tượng trước mặt ? Chẳng hạn, khi vui, ta biểu lộ khác; khi giận ta biểu lộ khác; khi buồn, ta biểu lộ khác.

Vọng luôn luôn biểu lộ trên hai mặt: ngấm ngầm hay công khai. Ngấm ngầm là nó tiềm tàng ray rứt trong tâm. Không bộc lộ ra bên ngoài thân hay lời. Còn công khai là nó biểu lộ qua phong thái cử chỉ, nói năng và thần sắc của ta đối với người khác hay đối với các đối tượng khác. Thí dụ như ánh mắt, nụ cười của ta biểu lộ như thế nào trên gương mặt, hay những xúc cảm hồi hộp qua những sự kích động của tim và sự tuần hoàn của máu mà ta cảm nhận được.

Qua cách nhìn với những truyền thống qui ước của người thế gian, dựa vào sự biểu lộ thần sắc, âm thanhcử chỉ của người khác, ta nói vọng tưởng là thật.

Thí dụ, qua sự chửi mắng của người khác, chính tai ta nghe rõ ràng nội dung chửi mắng, ta không thể bảo âm thanh đó là không thật, nội dung chửi mắng kia là không thật. Cũng như khi thấy sắc mặt xanh như tàu lá hay đỏ tía tai của người đương nổi sân, và tay chân họ đương có những cử chỉ thô tháo, dùng ngón tay xỉ xỏ ta, ta không thể bảo những sự biểu lộ đó là giả. Hoặc lỡ người đó tát vào má ta một cái đau điếng, ta không thể bảo cái tát kia là không thật được. Rõ ràng qua các giác quan của mắt, tai và thân, ta đã cảm nhận được những mức độ biểu lộ vọng của đối phương như thế nào và chính sự phản ứng từ nơi tâm của ta ra sao, khi ta bị ăn đòn đau điếng hay tỏ ra bực bội, giận tức đối với người khinh miệt ta, xài xể ta, mắng nhiếc ta.

Như vậy, trên mặt hiện tượng hay tục đế, vọng tưởng có thật. Nó do chính ta khởi lên và cũng do chính ta cảm nhận được. Nhưng nếu muốn tìm thực chất nó là gì, ta sẽ nhận ra nó không thực chất tính. Tức là nó trống không. Trống không là thể tánh (nature) hay bản thể của vọng tưởng. Với tâm giác ngộ, ta mới nhận ra được bản thể hiện tượng. Còn với tâm mê, ta không thể nào nhận ra được thể tánh vọng tưởng.

Vì thế, ở trường hợp này, trên mặt tục đế, chúng tôi nói "vọng tưởng là thật có." Để rồi từ đó ta tiến hành cách làm chủ nó. Cho đến khi nó không còn tự động khởi lên nữa. Bấy giờ ta mới đạt được mục tiêu dừng vọng hay không theo vọng. Khi thực sự đạt được dừng vọng, ta sẽ kinh nghiệm được thể tánh vọng tưởng là Không. Chữ "Không" này là thể tánh của hiện tượng, chứ không phải là "không có" trong nghĩa phủ định. Đây chính là lúc tâm ta không còn bị cảm thọ chi phối. Nghĩa là cảm thọ tuy có, nhưng không chi phối tâm ta, vì ta biết thể tánh của tất cả hiện tượng là Không.

Nhiều người lầm tưởng thể tánh với tác dụng. Khi nghe Phật và chư Tổ nói thể tánh hiện tượng là "Không", rồi cho rằng vọng tưởng là "không có."

Chúng tôi xin lặp lại: - ở đây, "Không" có nghĩa "tánh Không" hay "không thực chất tính." chứ không phải "không" là không có gì theo nghĩa phủ định. Nếu vọng tưởng không có, tại sao Thiền tông chủ trương tu để dừng vọng tưởng ? Hòa Thượng Thanh Từ dạy ta "Không Theo Vọng" ? Như vậy, đâu phải chư Tổ Thiền tông sai ? Tại ta hiểu sai ý nghĩa "Không" trong thuật ngữ Phật giáo. Ta nghĩ rằng "Không" là "không có gì." Chứ không ngờ "Không" là thuật ngữ được Phật dùng để chỉ bản thể hiện tượng. Nó có nghĩa "Trống Không." Từ Sanskrit là śūnya (tĩnh từ - empty) hay śūnyatā (danh từ - emptiness). Có nghĩa "Tánh Không."

Các ngài đã nhận ra thực chất tác dụng của vọng tưởng như thế nào đối với thân, tâm, và trí tuệ con người nên mới dạy ta tu để làm sao dừng cho được vọng tưởng; tu làm sao để không theo vọng. Vì nếu ta không dừng được, ba nghiệp thân, lời, và ý của ta sẽ chồng chất thêm lên nữa. Chấm dứt khổ đau, giác ngộ, và giải thoát sẽ không bao giờ trở thành hiện thực nơi ta.

Tóm lại, chư Tổ nói "vọng là giả, không thật" là do các ngài đứng trên mặt thể tánh của vọng mà luận. Còn đứng trên mặt tác dụng các ngài xem nó là thật, tuy các ngài không công bố điều này. Nhưng xét về lối dạy của các ngài, chúng ta tự hiểu rằng các ngài xem "vọng là thật." Nếu không xem nó là thật, tại sao các ngài dạy ta "Không Theo Vọng" hay dạy ta phải "Dừng Vọng" ? Và các ngài còn cảnh giác ta, "nếu cứ theo vọng, ta sẽ tiếp tục luân hồi trong lục đạo."

Do đó, trên mặt tục đế, chúng tôi cũng nói "vọng là thật", và hướng dẫn thiền sinh nhiều cách thực hành để dừng vọng hay làm chủ vọng. Có làm chủ vọng, ta mới thoát khổ. Không làm chủ được vọng, ta sẽ khổ mãi.

Tại sao khổ? Đó là tâm ta rối loạn do vọng tạo ra những mối xúc cảm tâm lý bất bình thường. Vui, buồn lẫn lộn. Lo âu, sợ hãi, hờn, ghen, ghét gia tăng. Kết quả đưa đến là thân sẽ đau ốm do tác dụng của những mối xúc cảm lo âu, sợ hãi, buồn, khổ, sân hận do tâm tạo ra. Sau cùng, trí tuệ ta không bao giờ được sáng. Sự dụng công tu thiền chắc chắn phải bế tắc chỉ vì vọng cứ thường xuyên bao phủ nội tâm. Thay vì làm chủ vọng, không theo vọng, ta lại để vọng tự do khởi lên. Nó cứ thúc đẩy trí năngsuy nghĩ dao động. Nếu trầm tĩnh được thì tốt, không trầm tĩnh được thì lọt hố. Đó là hố tội lỗi, hố sa ngã, hố tội ác. Rồi cũng từ đó, nghiệp chướng lại chồng chất thêm.

Tác động vọng tưởng với tâm, thân, và trí tuệ

Thông thường, nếu sự khởi vọng liên tục và mang nhiều nội dung xúc cảm ray rứt, ngấm ngầm, tác dụng của nó sẽ gây ảnh hưởng xấu đến ba mặt tâm, thân, và trí tuệ. Với tâm thì tinh thần ta sẽ căng thẳng hay phiền não triền miên, với thân thì đưa đến bệnh tâm thể, với trí tuệ thì đưa đến sự mê lầm, mê chấp hay điên đảo.

Tuy nhiên, vọng tưởng có thứ tốt và xấu. Thứ tốt là trọng tâm của vọng nhắm đến việc phụng sự nhân sinh với tinh thần bồ tát. Thứ xấu là những ý nghĩ, những tư tưởng đen tối. Những loại vọng này luôn luôn gây tác hại thân, tâm, và trí tuệ bằng những thứ tâm lý xúc cảm lo âu, phiền não, sợ hãi, sân hận, gây hấn, lừa đảo, đấu tranh, đố kỵ, gièm pha, thấy lỗi người, quên lỗi mình, ác ngôn, ác khẩu, và những âm mưu phá hoại.

Chính những thứ vọng tưởng này là tác nhân gây uất cảm (stress). Mạng lưới vọng tưởng càng gia tăng hoạt động, mức độ xúc cảm cũng theo đó gia tăng. Như vậy, uất cảm được tạo ra là dựa trên những tiến trình phát huy cao độ của những nội dung vọng tưởng khác nhau. Nếu vọng tưởng bị kiểm soát, uất cảm không xảy ra, thân và tâm sẽ được cân bằng; bệnh tâm thể do đó cũng không xảy ra. Như vậy, bệnh tâm thể có là do trạng thái uất cảm tạo ra những tác động dây chuyền trong não bộ và các hệ thống chất nước hóa học bên trong não và hệ tuyến nội tiết. Uất cảm có là do sự tác động của tâm lý xúc cảm. Tâm lý xúc cảm được tạo ra bởi những tiến trình hình thành vọng tưởng. Vọng tưởng khởi triền miên là do tự ngã không tỉnh, tức còn mê. Vì còn mê nên tâm còn dính mắc, chấp trước, và điên đảo.

Hỏi: - Tại sao tu thiền phải kiểm soát vọng tưởng ?

Đáp: - Bởi vì nếu không kiểm soát được vọng tưởng, tâm ta cứ dao động thường trực trước các đối tượng của giác quan. Từ đó ta sẽ không bao giờ kinh nghiệm được định, cũng không kinh nghiệm được tuệ trí. Phiền não, lo âu, sợ hãi, buồn, khổ, giận tức, bực bội, oán trách cũng theo đó xen kẽ khởi lên. Nếu xúc cảm càng gia tăng, tâm ta càng rối loạn, theo đó, ta không thể nào tránh khỏi bệnh stress, tức uất cảm. Nếu uất cảm thường xuyên gắn liền trong cuộc sống, chắc chắn ta khó tránh khỏi bệnh tâm thể. Đây là lý do ta phải kiểm soát vọng tưởng.

Hỏi: - Làm thế nào để không theo vọng tưởng ?

Đáp: - Bằng Thiền Quán, giúp ta nhận rõ chân tánh hiện tượng thế gian. Ta có nhận thức mới về thế giới hiện tượng, qua đó ta có thể hạn chế bớt những dính mắc vào hiện tượng thế gian. Ta sẽ hạn chế bớt sự chạy theo vọng tưởng. Bằng Thiền Định, ta thực tập cách không định danh đối tượng hoặc ta thực tập cách không nói thầm trong não. Bằng Thiền Huệ, ta áp dụng không dán nhãn đối tượng hoặc áp dụng cách thấy như thật, biết như thật, nghe như thật, xúc chạm như thật, nhận thức biết như thật.


 Hòa thượng Thích Thông Triệt biên soạn

 

 

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
20 Tháng Tám 20221:28 CH(Xem: 1740)
„Was kommen wird, muss sterben“. Wahrscheinlich haben wir diese Wahrheit nicht akzeptieren wollen. Wir werden dann traurig oder ängstlich sein, wenn wir krank sind. Liebe Freunde, ist die Krankheit doch nicht eine Illusion der Sprache?
15 Tháng Tám 20226:56 SA(Xem: 2807)
Ni sư Thích nữ Triệt Như hướng dẩn KHÓA TU ĐẶC BIỆT - Phần 1 tại HỘI THIỀN TÁNH KHÔNG ONTARIO CANADA Ni Sư Triệt Như giới thiệu nội dung và mục đích của khóa tu. Bài tập về thiền hành với chủ đề: Biết sự xúc chạm khi đi - Cái biết đặt dưới bàn chân
13 Tháng Tám 20224:40 CH(Xem: 1997)
Theo quan niệm nhà Phật thì con người tự ràng buộc mình trong nỗi khổ đau do chính mình gây ra. Muốn thoát khổ thì cũng phải chính mình tháo gỡ sợi dây ràng buộc đó chứ không Thần Phật nào cứu rỗi, ban ơn, giáng họa cho mình được.
10 Tháng Tám 20227:09 SA(Xem: 2569)
Sự thật muôn đời: hễ cái gì có sinh ra, thì phải có lúc chấm dứt, biến mất, hoại diệt. Nhưng dường như chúng ta chưa chấp nhận sự thật này. Nên chúng ta buồn khổ vì bệnh. Các bạn ơi, như vậy bệnh có phải chỉ là ảo giác ngôn ngữ?
06 Tháng Tám 20229:52 SA(Xem: 2205)
84 K Dharma approaches mean there is none of them. How come? Any way is the entrance to the house that has been there and for each of us. We are inside our home and always at home. But we do not trust this truth. Then, we manage to look for this and that everywhere. Do live ingenuously, and very naturally. Do not add anything. With that, we are at home and inside our house.
01 Tháng Tám 20225:11 CH(Xem: 1922)
Nói theo luận lý Huyễn: không phải khách quan dính mắc thế gian, mà dính mắc thế gian chính là chủ quan.
27 Tháng Bảy 202211:15 SA(Xem: 2848)
Các em có lần tâm tình: cô ơi, trước khi cô nghỉ ngơi, cô hệ thống lại con đường từ đầu tới cuối cho tụi con theo đó mà đi. Thiệt ra có con đường nào đâu. Tu là thấy ra cái tâm của chính mình thôi. Chính mình đang ở trong cái tâm của mình. Con đường nào khác nữa? Là đã phóng ra ngoài, tìm cầu cái gì bên ngoài là đi lạc rồi.
27 Tháng Bảy 20226:49 SA(Xem: 1942)
Nếu nắm vững một trong ba cách “Như Thực - Yathābhūta” ta có khả năng mở ra những mấu chốt trong phương pháp tu Huệ của hệ Phát Triển và Thiền Tông.
26 Tháng Bảy 202210:53 CH(Xem: 2067)
Tùy theo căn cơ của chúng sanh mà Đức Phật có nhiều phương thức, nhiều pháp môn hướng dẫn đệ tử tu tập để đạt quả vị giải thoát tối hậu, nhưng với pháp môn nào người tu tập cũng phải thực hành nhuần nhuyễn Tam Vô Lậu Học: Giới-Định-Tuệ. Vì Tam Vô Lậu Học có công năng đưa hành giả qua bờ giác ngộ thoát khỏi vòng tục lụy luân hồi sinh tử./.
20 Tháng Bảy 20225:14 CH(Xem: 2574)
Làm sao sống hài hòa với thế gian? Các bạn ơi, đâu có gì bí hiểm. Thấy “cái đang là”. Đó, cái đáp án, đơn giản quá, mà sao áp dụng khó quá phải không? Chỉ cần biết “cái đang là” thôi là tâm trong sáng tức khắc. Khi ta nghĩ tới “cái phải là”, lập tức ta rơi vào biển khổ cuộc đời, ta bị trói buộc, hay ta đang trói buộc người khác.
18 Tháng Bảy 20225:13 CH(Xem: 2302)
Tổ đã mở màn một kỷ nguyên mới về Thiền bằng bốn câu kệ bất hủ: Bất lập văn tự; Giáo ngoại biệt truyền; Trực chỉ nhơn tâm; Kiến tánh thành Phật. (Xem Giải thích thuật ngữ ở cuối bài)*
14 Tháng Bảy 20228:13 SA(Xem: 2490)
84 ngàn pháp môn có nghĩa là không có pháp môn. Vì sao vậy? Đi cách nào cũng vào nhà, vì nhà là sẵn có, là của riêng mình. Ta đang ở trong nhà, luôn luôn đang ở trong nhà. Chỉ là mình không tin sự thật này, nên mình bôn ba tìm kiếm đâu đâu. Hãy sống hồn nhiên, thật tự nhiên, không cần thêm gì hết, là mình đang ở trong nhà của mình.
13 Tháng Bảy 20225:37 CH(Xem: 1970)
Người tu Phước vô lậu và Phước hữu lậu đều có những hành vi thiện lành giống nhau, nhưng tâm tư của mỗi hành giả lúc thực hiện thì khác nhau. Cùng một hành động, mà một đằng hướng đến tái sinh hưởng phước hữu lậu vật chất ở tương lai. Một đằng là công đức tu hành, làm lợi ích chúng sanh bằng tâm quảng đại. Khi cần thì làm. Làm xong thì thôi, không dính mắc gì cả.
09 Tháng Bảy 20225:48 SA(Xem: 1841)
Chân như là tướng chân thực hay chân tướng bất biến của mọi hiện tượng. Nó là nguyên tắc làm cho hiện tượng giới ở trong trạng thái như như bất động. Chỉ bằng trí huệ Bát nhã mới hình dung được ý nghĩa chân như như thế nào.
05 Tháng Bảy 20226:00 SA(Xem: 1696)
Nói theo luận lý Huyễn: không phải khách quan dính mắc thế gian, mà dính mắc thế gian chính là chủ quan. Nhưng khi đạt được sự lãnh hội hiện tượng thế gian là Như Huyễn, tâm ba thời không còn hiện hữu. Chủ quan và khách quan vắng mặt. Đây là trạng thái của trí huệ Bát Nhã.
29 Tháng Sáu 202212:30 CH(Xem: 2942)
Tất cả các vị thánh tăng đều có Giới đức, Định lực và Tuệ lực tròn đầy. Nhưng những phương tiện đầu tiên có hơi khác nhau: ngài A nan thì bước vào bằng ngõ đa văn, ngài Revata thì hạnh sống nơi rừng núi hoang vắng, ngài Anuruddha thì bằng thiên nhãn, ngài Mahā Kassapa thì hạnh đầu đà, ngài Mahā Moggallāna thì trí tuệ biện tài, ngài Sāriputta thì điều phục tâm v.v...Mỗi người mỗi vẽ, quy tụ lại như một vườn hoa có trăm đóa khác nhau, hoa nào cũng tròn hương, tròn sắc.
22 Tháng Sáu 20221:22 CH(Xem: 3161)
Hôm nay học lại gương sáng của người xưa, gương sáng vẫn muôn đời là gương sáng. Ánh sáng chỉ sáng cho những ai nhìn thấy. Ánh sáng của trí tuệ muôn đời vẫn thầm lặng chiếu soi trần gian, như ánh trăng kia thầm lặng sáng trong đêm dài cuộc đời.
19 Tháng Sáu 202211:17 SA(Xem: 2051)
Tánh Không (Śūnyatā) được gọi là bất khả đắc (không thể được: anupalabdha) hay bất khả tư (acintya: không thể suy nghĩ). Nó không phải là một khái niệm thông thường như trong bất cứ phạm trù nào của luận lý học trong triết học. Nó đồng nghĩa với Chân Như. Vì thế muốn giáp mặt nó, người thực hành phải kinh nghiệm nhận thức không lời.
15 Tháng Sáu 20227:25 SA(Xem: 2340)
Ý NGHĨA CỦA PHÓNG SANH - Sinh hoạt đạo trảng Houston - 5- 6- 2022
14 Tháng Sáu 20225:56 CH(Xem: 3020)
Ngài Anuruddha, đã gieo căn lành từ nhiều đời trong quá khứ, đời này sinh ra trong gia đình, dòng họ giàu sang, lại cùng thời với đức Phật, anh em chú bác với đức Phật, xuất gia rất sớm, không vướng bận vợ con, đầy đủ thuận duyên, trở thành một vị thánh đệ tử, quan sát cả ngàn thế giới mà chỉ như người đứng trên lầu cao nhìn xuống thế gian.
14 Tháng Sáu 20225:26 CH(Xem: 2423)
Ni sư Triệt Như Audio: KHÁI QUÁT VỀ THỂ NHẬP TÁNH KHÔNG AUDIO khóa BN Trung Cấp III 4-6-2022
13 Tháng Sáu 20229:46 SA(Xem: 1731)
... Đức Phật: “Chỉ qua thể tánh của chúng chứ các pháp đó không là cái gì cả. Tánh của chúng là không tánh (no-nature), và không tánh của chúng là tánh của chúng. Vì chư pháp chỉ có một tướng mà thôi, đó là không tướng. Vì lý do này chư pháp có đặc tính của không được biết đầy đủ bởi Như Lai. Vì pháp không có hai tánh, chỉ có một. Một là tánh của chư pháp. Và tánh của chư pháp là không tánh, và không tánh của chư pháp là tánh của chúng. Như thế, tất cả điểm dính mắc đó đều bị buông thả."
07 Tháng Sáu 202210:23 SA(Xem: 2535)
Người biết sống một mình là người luôn an trú trong chánh niệm. Tuy nhiên đối với đa số con người, xa lánh nơi ồn ào náo nhiệt là duyên thuận lợi hơn trong bước đầu tu tập.
05 Tháng Sáu 20225:21 CH(Xem: 1772)
Khi mạng lưới khái niệm càng được dệt, tâm linh hay chân tâm càng bị “chôn dấu”. Tiến trình tâm linh hay Phật tánh chỉ có thể phát sáng khi khái niệm hóa bị chấm dứt. Người nhiều vô minh thì thích tạo ra những mạng lưới khái niệm hóa dày đặc. Vì thế họ càng xa niết bàn, càng xa giác ngộ. Trái lại, họ gần phiền não và đau khổ.
04 Tháng Sáu 202211:21 SA(Xem: 4646)
This article is an introductory summary of the teachings of Zen Master Thích Thông Triệt on the topic, mainly based on the oral teaching of Bhikkhuni Zen Master Thích Nữ Triệt Như given for the Fundamental Meditation Course.
02 Tháng Sáu 20221:11 CH(Xem: 2075)
Đạo lộ tâm linh đi đến giải thoát giác ngộ, căn bản đầu tiên là phải tu tập từ các căn. Tu tập như thế nào Đức Thế Tôn đã từ bi chỉ rõ trong bài “Kinh Căn Tu Tập”.
01 Tháng Sáu 20226:59 CH(Xem: 2712)
Các bạn ơi, đây là một tấm gương sáng, một con đường tu học mà ngài A Nan gởi gắm lại cho đời. Con đường của trí tuệ, cũng dẫn hành giả tới giải thoát.
27 Tháng Năm 202212:03 CH(Xem: 2494)
This article is an introductory summary of the teachings of Zen Master Thích Thông Triệt on the topic, mainly based on the oral teaching of Bhikkhuni Zen Master Thích Nữ Triệt Như given for the Fundamental Meditation Course.
24 Tháng Năm 202212:23 CH(Xem: 2704)
Chợt tỉnh giấc nửa đêm, nhìn ra khung cửa sổ, trời sáng, trắng trong, mặt trăng tròn treo lơ lửng giữa trời không mây. Hôm nay là một đêm trăng mùa Phật đản sinh. Khép mắt lại, nhìn thấy một bức tranh thiệt đẹp giữa rừng, giữa một cảnh rừng, trong một đêm trăng sáng, cũng một đêm trăng tròn sáng như đêm nay
17 Tháng Năm 20221:38 CH(Xem: 2927)
Nhưng có một cái không xa rời mình, đó là cái tâm, tâm đời thì tái sanh để tiếp tục lặn hụp trong biển ái, biển khổ; nếu là tâm trong sạch thì tiếp tục tu học cho tới khi hoàn hảo là bước lên bờ. Bấy giờ trên bến bờ bình an, thấy ai giơ tay vẫy gọi, ta mới tới cầm tay dắt lên bờ. Còn những ai mải mê đắm đuối trong sóng nhấp nhô, thì ta có làm gì hơn nữa được đâu, phải không các bạn ơi!
11 Tháng Năm 20222:50 CH(Xem: 2804)
Pháp môn là cái cổng để đi vào học, hiểu và thực hành Pháp. Pháp là chân lý, cũng là tất cả hiện tượng thế gian. Nói như vậy, chúng ta có thể tưởng là hai thứ khác nhau. Không, chúng chỉ là một. Chân lý hiển lộ ra qua mỗi hiện tượng thế gian, mỗi hiện tượng thế gian chính là chân lý. Ta cũng là chân lý, chân lý cũng hiển lộ qua ta. Ta cũng là tất cả chân lý. Tất cả đều bình đẳng: đều vô thường, đều vô ngã, đều duyên sinh, đều trống rỗng, đều như huyễn, đều như như bất động. Tất cả đều là cái vô sanh, nên bất tử.
10 Tháng Năm 20223:33 CH(Xem: 2964)
This article is an introductory summary of the teachings of Zen Master Thích Thông Triệt on the topic, mainly based on the oral teaching of Bhikkhuni Zen Master Thích Nữ Triệt Như given for the Fundamental Meditation Course.
04 Tháng Năm 202212:31 CH(Xem: 2919)
Đức Phật nói nước mắt con người chảy thành biển cả mênh mông, còn tiếng cười của hai anh em mình chỉ đong đầy có hai cái lu thôi. Nước mưa thì vẫn trong vẫn mát. Mùa xuân cũng vẫn mát vẫn trong, muôn đời.
03 Tháng Năm 20229:22 CH(Xem: 2496)
This article is an introductory summary of the teachings of Zen Master Thích Thông Triệt on the topic, mainly based on the oral teaching of Bhikkhuni Zen Master Thích Nữ Triệt Như given for the Fundamental Meditation Course.
27 Tháng Tư 20223:46 CH(Xem: 2988)
“Cô nghĩ sao về cái Chết?”. - Chợt nghĩ tới mình, bước đường đời đã tới mức cuối, rồi nghĩ tới các bạn. Cái cầu mình sẽ phải đi qua, vậy mình chuẩn bị hành trang nào, sẵn sàng bước tới mấy nhịp cầu “đoạn trường” đó?
27 Tháng Tư 202210:24 SA(Xem: 2341)
Ni sư Triệt Như VIDEO Giảng Đại Chúng Bài 7: CHỖ ĐỨNG và MỤC TIÊU CỦA CHÚNG TA Giảng tại Thiền Đường Tánh Không Nam Cali ngày 16 tháng 4, 2022
20 Tháng Tư 202210:17 SA(Xem: 3458)
Cho nên tham sân si cũng biểu hiện tất cả những chân lý thường hằng của vạn pháp. Chúng là vô thường, là khổ, là vô ngã, bản thể trống không, như huyễn mộng, là như như bất động, là bình đẳng với vạn pháp.
69,256