HỘI THIỀN TÁNH KHÔNG TRUNG ƯƠNG

Bài Đọc Thêm: Đối Chiếu Kinh - PHẨM ĐÁNG ĐƯỢC CUNG KÍNH

10 Tháng Năm 20237:33 CH(Xem: 1306)

Bài Đọc Thêm

ĐỐI CHIẾU KINH

PHẨM ĐÁNG ĐƯỢC CUNG KÍNH

blank
"Như vầy tôi nghe:

"Một thời Thế Tôn trú ở Sāvatti (Xá Vệ), Jetavana (Kỳ Đà Lâm), tại khu vườn ông Anāthapiṇḍika (Cấp Cô Độc). Tại đấy, Thế Tôn nói như sau:

- Thành tựu sáu pháp, này các Tỳ kheo, Tỳ kheo đáng được cung kính, đáng được tôn trọng, đáng được cúng dường, đáng được chắp tay, là phước điền vô thượng ở đời. Thế nào là sáu?

Ở đây, này các Tỳ kheo, Tỳ kheo khi mắt thấy sắc, không ưa thích, không ghét bỏ, trú xả, chánh niệm tỉnh giác; khi tai nghe tiếng, không ưa thích, không ghét bỏ, trú xả, chánh niệm tỉnh giác; khi mũi ngửi hương... khi lưỡi nếm vị... khi thân cảm xúc... khi ý biết pháp, không có ưa thích, không có ghét bỏ, trú xả, chánh niệm tỉnh giác.

Thành tựu sáu pháp này, này các Tỳ kheo, Tỳ kheo đáng được cung kính, đáng được tôn trọng, đáng được cúng dường, được chắp tay, là vô thượng phước điền ở đời.

Thế Tôn thuyết như vậy. Các vị Tỳ kheo ấy hoan hỷ, tin thọ lời Thế Tôn dạy."

(Trích Phẩm ĐÁNG ĐƯỢC CUNG KÍNH, Tăng Chi Bộ Kinh, tập 3, tr. 9-10, do Hòa Thượng Thích Minh Châu dịch từ Pàli tạng.)

 

GIẢNG

1. Ý NGHĨA

Đây là bài pháp Phật dạy các vị Tỳ kheo  thực tập bằng cách trong 4 oai nghi đi, đứng, nằm, ngồi, khi mắt thấy các hình tướng, các màu sắc của cảnh vật, người, thú; khi tai nghe tiếng (âm thanh đủ loại, từ tiếng nhạc, lời ca đến những lời ngon ngọt, dịu dàng hay thô kệch, xấc xược, hỗn láo), mũi ngửi hương thơm hay khó chịu; lưỡi nếm vị cay, đắng; khi thân xúc chạm với đối tượng bên ngoài hay những cảm giác từ bên trong khởi lên; khi ý khởi lên những hình ảnh kỷ niệm xa xưa, những xúc cảm đau buồn hay vui sướng, hoặc những ý nghĩ do sự tác động của 5 giác quan liên hệ đến quá khứ, tương lai, và hiện tại, các vị đó cần phải "không ưa thích, cũng không ghét bỏ và tâm phải luôn luôn ở trong trạng thái bình thản hay thanh thản trước các đối tượng của giác quaný căn, mà Phật gọi là "trú xả." "Trú" là "ở trong," "xả1" là "bình thản hay thanh thản." "Trú xả" là ở trong trạng thái bình thản, trạng thái không dính mắc vào các đối tượng trong 3 thời quá khứ, tương lai và hiện tại. Nhưng làm sao đạt được "không ưa thích," 'không ghét bỏ," và "xả" trước các đối tượng của 5 giác quan và sự khởi lên của ý căn thuộc 3 thời? Ở đây, Phật không dạy gìn giữ sáu căn, cũng không dạy quán chiếu sáu trần là tạm bợ hay không có thực chất; Phật dạy pháp CHÁNH NIỆM VÀ TỈNH GIÁC. Nghĩa là dù sáu căn tiếp thu sáu trần hay sáu trần khởi động trong sáu căn, các vị Tỳ kheo luôn luôn phải nhớ là không khởi niệm phân biệt "ưa thích," hay "ghét bỏ" về các đối tượng đó, mà chỉ nhớ là duy trì niệm biết rõ ràng về các đối tượng đó thôi. Có như thế, tâm mới "bình thản" được. Niệm biết rõ ràng này chính là tánh giác vậy.

Như vậy, bằng cách thực hành chánh niệm và tỉnh giác, có khả năng giúp các vị Tỳ kheo đạt được trạng thái tâm không ưa thích, không ghét bỏ và bình thản trước các đối tượng thế gian, hay tâm không còn dính mắc vào các đối tượng khi sáu căn tiếp xúc với sáu trần hay sáu trần tự khởi động bên trong sáu căn mà không có sáu thức tham dự vào. Chỉ vì tánh giác đã có mặt.

________________________

1. xả: thanh thản, bình thản: P: upekkhā: equanimity.  Một trong 4 vô lượng tâm, quan trọng bậc nhất về đức hạnh của người Phật tử. Nó là nền tảng của tâm giải thoát, vì nó không vướng mắc vào vui buồn và khổ đau, phiền não, vượt lên trên những phân biệt hai bên.

 

2. KẾT QUẢ

Nếu thành tựu trọn vẹn pháp chánh niệm và tỉnh giác trong 4 oai nghi, các vị Tỳ kheo xứng đáng được mọi người chắp tay cung kính, được mọi người tôn trọng, cúng dường, và được xem như có rất nhiều ruộng phước trên đời.  Riêng trên mặt tâm linh, vị Tỳ kheo đó đã thành tựu được cách làm cho tánh giác hiển lộ; bóng đen của vô minh hắc ám đã bị đẩy lùi để cho ánh sáng trí huệ được phát huy; tâm chấp trước đã bị đẩy lùi về quá khứ để cho tâm thanh tịnh, phóng khoáng, bao dung xuất hiện. Và đặc biệt là định và huệ đều đồng có mặt trong 4 oai nghi của vị Tỳ kheo đó. Bởi vì trên căn bản, tánh giác là hiện thân cho định và huệ.

 

3. ĐIỂM THEN CHỐT

Như vậy, xuyên qua bài kinh ĐÁNG ĐƯỢC CUNG KÍNH, ta nhận ra rằng Phật dạy các vị Tỳ kheo trong 4 oai nghi đều giữ chánh niệm và tỉnh giác để khi sáu căn tiếp xúc với sáu trần (đối tượng), sáu thức không khởi động.  Có như thế các vị ấy mới không ưa thích, không ghét bỏ và trú xả.

Với hàng cư sĩ, nếu dựa theo bài kinh này để ứng dụng, ta không cần kềm giữ sáu căn, cũng không cần quán chiếu sáu trầnkhông thật, trái lại ta chỉ ngồi nhìn sự có mặt của sáu trần bên trong cơ chế sáu căn khởi lên mà tâm vẫn an tịnh; mặc tình cho các mô thức tri giác cứ luân phiên xuất hiện, nhưng chẳng quậy phá gì được bề mặt của tánh biết. Do đó, điểm then chốt của bài kinh nằm trong 4 chữ "chánh niệm tỉnh giác" mà ta cần nắm rõ nghĩa thuật ngữ này để thông suốt cốt tủy bài pháp. Đồng thời ta cũng soi rọi lại sự dụng công của ta qua pháp tỉnh thức biết trong bước 1 và bước 2 trước đây, xem Thiền và Giáo lý có đi chung với nhau không.

 

4. TÌM HIỂU Ý NGHĨA CHÁNH NIỆM VÀ TỈNH GIÁC.

Về thuật ngữ, "chánh niệm và tỉnh giác" xuất phát từ trong nhóm từ của tiếng Pàli là sati ca sampajañña ca (mindfulness and clear awareness) mà Phật thường sử dụng để dạy trong các kinh: Kinh Niệm Xứ (10) và Nhập Tức Xuất Tức Niệm (118) Trung Bộ Nikàya và Kinh Sa Môn Quả (2), Kinh Đại Niệm Xứ (22), Kinh Phúng Tụng (33), Trường Bộ Nikàya, và các kinh trong Tăng Chi Bộ như kinh Đáng Được Cung Kính, kinh Niệm Chết, kinh Bốn Hạng Người... Trong đó chữ "sati"  được dịch theo nghĩa chính của từ này là "chánh niệm" vì từ này được Phật kết hợp chung với từ sampajañña  (full awareness, total awareness or clear awareness), có nghĩa "biết đầy đủ," "biết toàn thể" hay  "biết rõ ràng," được dịch thoát nghĩa là "tỉnh giác."

 

1. Nghĩa thứ nhất - Từ sati có nhiều nghĩa. Thông thường, nghĩa chính của nó là "niệm" hay "chú ý tới" hoặc "nhớ tới." Trong trường hợp sati được kết hợp chung với sampajañña, Hòa Thượng Thích Minh Châu dịch đúng nghĩa là "chánh niệm." Tức là, hễ có tỉnh giác hay "biết đầy đủ," "biết toàn thể," "biết rõ ràng," phải có chánh niệmNhư vậy, trong trường hợp này nghĩa của chánh niệm và tỉnh giác được hiểu là "nhớ tới” hay "chú ý tới" "sự biết rõ ràng" một cách chân chánh; không tà niệm trong đó.

 

Nhưng biết rõ ràng cái gì? Đó là biết rõ ràng sáu trần động trong sáu căn hay trong sáu căn có sự khởi động của sáu trần mà tâm ta vẫn ở trong trạng thái bình thản

Tại sao phải biết như thế? Vì có giữ niệm biết như thế, tâm mới không duyên theo hay không dính mắc với sáu trần trong 4 oai nghi và hằng ở trong trạng thái xả hay bình thản. Đây là mục đích yêu cầu của bài kinh.

Đặc biệt nhất là lúc tọa thiền, khi các mô thức tri giác riêng rẽ từ sáu căn khởi lên, ta không dính mắc với chúng. Nếu dính mắc với chúng, niệm biết kia liền trở thành "tà niệm phân biệt," không còn mang ý nghĩa "chánh niệm." Khi "tà niệm phân biệt" có mặt, chúng sẽ phá tan tiến trình định của ta. Tức là trong lúc đó ta đã theo vọng tưởng, dưới các dạng của mô thức tri giác riêng rẽ và sự đối thoại thầm lặng. Chính vì thế, để đạt chánh niệm, ta phải tỉnh giác (hay tỉnh biết). Nếu mê, tức không tỉnh, ta sẽ bị niệm từ các mô thức tri giác trong sáu căn dẫn đi.

Đây là lý do vì sao Phật dạy các vị Tỳ kheo phải "chánh niệm và tỉnh giác." Vì có nhớ tới cái "biết rõ ràng," tâm ta mới không dính mắc với các sự kiện xảy ra từ bên trong sáu căn, xem như ta đạt được "trú xả" hoặc đạt được "không ưa thích," "không ghét bỏ" về những điều gì do sáu căn thu vào từ sáu trần bên ngoài hay bên trong cơ thể.

 

Cho nên, để làm rõ ý nghĩa niệm, ở trường hợp này từ sati được hiểu là "chánh niệm." Tức là ta phải hằng nhớ tới một niệm, đó là niệm "tỉnh giác."

 

Điều quan trọng ở đây, chúng ta cần hiểu rõ thêm ý nghĩa 2 từ "tỉnh giác" hay "biết đầy đủ," "biết toàn thể," "biết rõ ràng" trong trường hợp này như thế nào. Giác là biết. Từ Pàli là jañña. Trong con người, trên thực tế có ba cái biết: biết của ý thức, biết của ý căn và biết của tánh giác. Biết của ý thức là biết phân biệt rõ ràng giữa hai vật, trong đó có kèm theo ngôn ngữ. Biết của ý căn là biết của trí năng biện luận hay tư duy tính toán, trong đó cũng có kèm theo ngôn ngữ. Còn cái biết của tánh giác thì biết toàn thể, trong đó không có ngôn ngữ. Ở đây, để tránh lẫn lộn với hai cái biết có kèm theo ngôn ngữ, Phật dùng thêm từ sampa kết hợp với jañña, lập thành từ kép sampajañña. Từ này có nghĩa "biết rõ ràng," "biết đầy đủ," "biết toàn thể." Trong tự thân con người chỉ có Tánh Giác đóng được vai trò "biết rõ ràng," "biết đầy đủ," "biết toàn thể."  Như vậy, khi Phật dùng từ sati đi kèm theo từ sampajañña, ta biết rằng đây là Phật chỉ thẳng chức năng biết của tánh giác. Bởi vì chỉ có tánh giác mới biết rõ ràng, biết đầy đủ, biết toàn thể đối tượng bên ngoài hay bên trong sáu căn mà vẫn luôn luôn ở trong trạng thái xả, hay không dính mắc với các đối tượng giác quan một cách tự động. Lý do, cái biết của tánh giác là cái biết không ngôn ngữ, không cảm thọ, nên tuy biết mà nó vẫn bình thản, không phê phán, không bày tỏ tình cảm một cách tự nhiên. Ngoài ra nó lại biết luôn sự khởi động của ý căný thức. Còn ý thứcý căn thì luôn luôn biết đối tượng theo từng phần qua sự truyền vào của 5 giác quan, và đòi hỏi phải có suy luận, có phân biệt của ngữ ngôn trong đó. Nên cái biết này luôn luôn biểu lộ ưa thích hay ghét bỏ. Tức là cái biết đó luôn luôn biểu lộ tâm phân biệt, luôn luôn biểu lộ hai mặt: tốt/xấu; thiện/ác; lưng chừng/ba phải. Nói chung là hai bên.

 

2. Nghĩa thứ hai. - Nhưng làm thế nào để không hai bên? Chỉ có im lặng từ trong tâm thức (không lời) mới cụ thể hóa được không phân biệt, không hai bên, không ưa thích, không ghét bỏ.  Còn nếu nói ra thành lời, dù đó là lời trung thực, lời chân chánh vẫn có bên này hoặc bên kia ngay!  Lý do là ta vẫn còn đứng trên bình diện phàm tâm vọng chấp để nhận định hay phê phán đối tượng kia là tốt hay xấu, phải hay không phải. Do đó, ở nghĩa thứ hai, chánh niệm đồng nghĩa với KHÔNG LỜI hay VÔ NGÔN.  Vì nếu có lời phát ra, tâm ta sẽ ở vào một bên hoặc chánh hoặc tà, hoặc thiện hoặc ác. Cho nên để tránh chấp trước, tránh phân biệt, Phật dạy các vị tỳ kheo là "an trú trong chánh niệm," "không chấp trước một việc gì trên đời." Có nghĩa "không an trú trong tà niệm phân biệt," mà "an trú trong sự tĩnh lặng nội tâm và không dính mắc với đối tượng hay không duyên theo đối tượng của các căn."

Như vậy, ở trường hợp thứ hai, nghĩa chánh niệm cũng đồng nghĩa với vô niệm. Nó được dùng để chỉ cho trạng thái tâm hằng yên tĩnh và đàng sau trạng thái hằng yên tĩnh này xuất hiện một dòng biết không hai. Đó là sampajañña, biết rõ ràng, biết đầy đủ, biết toàn thể về đối tượng hay sự kiện trước mắt mà không có kèm theo lời nói thầm. Hoặc nếu có phát ra lời, lời đó không có sự can thiệp của trí năng hay của ý thức mà là sự kiến giải của tánh giác. Bởi vì nếu có trí năng hay ý thức tham dự, nội dung lời nói của ta sẽ không được thanh tịnh, không được trong sạch, không được thanh cao. Ít hay nhiều đều vướng mắc sự chấp trước, ưa thích hay ghét bỏ, chủ quan hay thiên lệch, hoặc bị sự tác động của quyền lợi. Bởi vì lời nói đó do tự ngã chủ động phát ra, luôn luôn được đặt dưới sự suy luận hay phân tích của ý thứcý căn. Trong lúc đó, ý thứcý căn vốn được xây dựng trên cơ sở tập khí hay lậu hoặc.

 

Chú ý: - Trong trường hợp khác, chánh niệm (P: sammāsati; Skt: samyaksmṛti: right mindfulness) là yếu tố thứ bảy trong Bát Chánh Đạo; có nghĩa niệm chơn chánh. Niệm chơn chánh theo Bát Chánh Đạo là "không có tà phân biệt," "không có tâm tán loạn, tâm xao động," hay "tâm không duyên theo sáu trần," tâm không nghĩ thiện, không nghĩ ác." Nói gọn lại là "nhất tâm" hay "một tâm." Tức là tâm không dính mắc với bất cứ đối tượng gì.

Trên mặt tích cực, tâm duyên theo sáu trần thuộc tà niệm, vì tâm còn ở phạm trù đối đãi giữa hai sắc thái của đối tượng là: phải và trái; tốt và xấu; cao thấp... Đây là sắc thái tâm do ý thức phân biệt tạo nên. Chính vì thế, theo sau ý thức không thể nào có chánh niệm, dù cho trạng thái ý thức đó được xem là cao siêu cùng tột hay sâu thẵm nhất, bởi vì thực chất nó vẫn là cái bị sanh. Chỉ có theo sau tánh giác mới có chánh niệm. Vì tánh giác là cái vô sanh. Cho nên chánh niệm được xếp vào hàng thứ bảy, sau chánh định. Vì có đạt được sự không theo sáu trần hay sự không loạn động của tâm, ta mới thành tựu được định. Nhưng thế nào là tâm không theo sáu trần? tâm không loạn động? Đó là trạng thái tâm ngôn không động. Chính vì điểm chủ yếu này nên chánh niệm được xem là nhân của chánh định, vì muốn đạt được chánh định, trước hết ta phải đạt được "nhất tâm." Trong con người có hai sắc thái tâm: vọng tâmchân tâm. Như vậy, sự nhất tâm này phải là sự có mặt của chân tâm. Mà chân tâm là gì? Là tánh giác! Như thế, sự nhất tâm này là trạng thái biết thường hằng nhưng tâm ngôn không khởi động của tánh giác, chứ không phải còn một thứ tâm tập chú vào một đối tượng, hoặc tâm nghĩ đến thiện hay không nghĩ đến của ý thức. Như vậy, chánh niệm đồng nghĩa với tánh giác.

Tóm lại, chánh niệm và tỉnh giác có nghĩa khi các căn tiếp xúc đối tượng, hay khi các đối tượng tự khởi trong các căn dưới hình thái các mô thức tri giác, mà Thiền tông gọi là pháp trần, ta cố gắng nhớ giữ niệm biết của tánh giác để tự ngã không có mặt trong tiến trình biết này. Do đó, tuy hằng biết rõ ràng đối tượng mà tâm vẫn không dính mắc với đối tượng.  Vì sao? Vì trong đó không có mặt tự ngã mà có mặt tánh giác. Một khi tánh giác xuất hiện, bóng đen của vô minh phải bị tan mất. Nó càng có mặt thường xuyên, phiền nãođau khổ càng lánh xa trong cuộc sống hằng ngày của ta. Đây là pháp tu mà Phật dạy hàng Tỳ kheo sử dụng để tâm được bình thản trước các duyên. Hay đứng trước các pháp thế gian, tâm không ưa thích, không ghét bỏ, không dính mắc; trái lại được bình thản. Mọi sự chấp trước không còn khởi dậy trong tâm vị đó nữa. Khi đã nhuần nhuyễn sự yên lặng nội tâm, vị ấy mới đáng được chắp tay cung kính, đáng được cúng dường và đáng được hưởng phước điền.

Nếu nói theo Lục Tổ Huệ Năng (638-713), vị ấy đã được tâm bình hạnh thẳng. Còn nói theo Mã Tổ (709-788), cháu đời thứ hai của Lục Tổ, vị ấy đạt được bình thường tâm.

 

5. LÀM THẾ NÀO CỤ THỂ HÓA CHÁNH NIỆM TỈNH GIÁC?

Để cụ thể hóa chánh niệm tỉnh giác trong tiến trình đạt được "trú xả," ta đã áp dụng hai bước.  Bước 1, thực hành trống rỗng chú ý, không định danh đối tượng, không dán nhãn sự vật và thực tập thiền hành vô ngôn.

Sau khi có kinh nghiệm về cái biết không lời, ta bắt đầu thực hành bước 2 là tỉnh thức biết. Trong pháp tỉnh thức biết chia làm 2 giai đoạn.

Giai đoạn 1, trong 4 oai nghi, tỉnh thức canh chừng niệm khởi dưới hình thái các mô thức tri giác riêng rẽ khởi lên trong sáu căn bằng tánh biết. 

Giai đoạn 2, thầm nhận chủ đề: "tỉnh thức mà không lập lại nội dung thực hành đó trong đầu." Thuật ngữ gọi là "tỉnh thức biết mà không tỉnh thức biết, đó là chân tỉnh thức biết." Tức là khi đã nhuần nhuyễn cách thực hành chủ đề tỉnh thức biết, ta mới thực hành giai đoạn này. Đây là giai đoạn thực hành với chủ đích tác động thẳng vào tánh giác, làm cho tánh giác trở thành một năng lực. Tuy nhiên, điều đáng chú ý ở đây là trước khi tọa thiền, chủ đề này không hiện ra trong tâm thức ta nữa. Tâm ta ở vào trạng thái trống không, nhưng ta vẫn "hằng biết phương thức tỉnh thức biết thực hành như thế nào." Mỗi khi có một mô thức tri giác xảy ra trên thân hay tại vùng ký ức vận hành, ta đều biết rõ ràng.  Bằng sự biết này, ta sẽ trừ được các tạp niệm mỗi khi chúng khởi lên. Bởi vì đây là cái biết không lời của tánh giác! Khi nó có mặt, các tạp niệm liền bị xua tan.

Tóm lược

- Trên mặt lý luận, đại cương pháp này được giảng là đối trước sáu trần, ta lúc nào cũng tỉnh thức biết nhưng biết trong vô ngôn để canh chừng niệm khởi từ bên trong các mô thức tri giác riêng rẽ của sáu căn khởi lên. Mỗi khi chúng khởi lên, ta đều nhận biết.

- Sắc thái biết này là cái biết của tánh giác chứ không phải biết của ý thức. Do đó, trong trạng thái biết này không có mặt tự ngã (self-ego). Và ý niệm ta/tôi trong trường hợp này được đồng hóa như "ông chủ" hay "chân ngã" hoặc "cái ta giác ngộ" (the "I-enlightenment") biết rõ đường đi về nhà phải đi bằng lối "tỉnh thức biết", hay cái ta trong vai trò "nhân chứng." Vì ta biết sự động của sáu trần trong cơ chế sáu căn mà ta không duyên theo, không hùa theo chúng. Trái lại ta chỉ đứng nhìn sự xuất hiện của chúng với tâm trạng bình thản; giống như người đứng ngoài vòng "tranh chấp" giữa hai nhóm "sáu trần" trong "sáu căn" đang gấu ó (quarreling) với nhau.

- Trên thực tế, lúc bấy giờ chỉ có mặt tánh biết với sự động của các mô thức tri giác trong cơ chế các căn. Tuy nhiên, ta vẫn trong tư thế tỉnh thức, chứ không mê ngủ. Vì có tỉnh thức, ta mới canh chừng được niệm khởi, không bị niệm dẫn đi. Hễ một niệm vừa khởi lên, ta liền biết, niệm kia liền tự tắt ngay. Ta không cần khởi niệm diệt vọng, mà vọng cùng tự lặn mất. Bởi vì đây là sự biết không lời của tánh giác. Khi tánh giác có mặt, tất nhiên vọng kia phải bị xua tan ngay!

- Ta đã biết rõ sự khác nhau giữa hai sắc thái tỉnh thức của ý thứctỉnh thức của tánh giác. Ở đây, tỉnh thức biết là sự tỉnh thức của tánh giác. Như vậy, khi nói đến tỉnh thức biết, ta nhận rõ ngay đây là sự tỉnh thức biết không lời, vốn là chức năng của tánh giác. Sở dĩ ta áp dụng kỹ thuật tỉnh thức biết, ấy là vì bằng cách này ta mới làm cho tánh giác có mặt thường trực được. Khi nó thực sự có mặt, sáu trần dù có xuất hiện trong sáu căn, cũng không tác động được sáu thức, nên tâm ta vẫn thường trực trong trạng thái không ưa thích, không ghét bỏ hay "trú xả," phù hợp theo lời Phật dạy trong kinh "Đáng được cung kính" vậy.

- Như thế, bằng cách thực hành tỉnh thức biết, chính ta đã ứng dụng phù hợp theo lời dạy của Phật trong pháp CHÁNH NIỆM VÀ TỈNH GIÁC. Vì sao? Vì muốn thành tựu chánh niệm ta phải ứng dụng kỹ thuật tỉnh thức; muốn thành tựu tỉnh giác, ta phải áp dụng biết không lời.

 

HẾT

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
20 Tháng Năm 20232:10 CH(Xem: 1346)
Liebe Freunde, ein Kochrezept zubereiten ist nichts anderes als eine Kultivierungsübung. Um zu überleben, essen wir und praktizieren wir. Daher sind die Prinzipien für eine gute Küche quasi die Prinzipien für eine gute Praxis. Kurz gesagt, alles, was wir tun, ist eine Kultivierung. Der Lebensweg ist auch der Kultivierungsweg. Alles ist abhängig von unserem Geist. Wie er das Objekt wahrnimmt, ist es das Reich, in dem wir leben.
16 Tháng Năm 20239:48 CH(Xem: 1675)
Khóa Tu Thiền Tập Đơn Giản Để Sống An Lạc từ 14 đến 19 tháng 4 năm 2023 tại Chùa Tích Lan, Ontario.
16 Tháng Năm 20237:21 CH(Xem: 1229)
Người “Sống Tùy Duyên Thuận Pháp” là người có tu tập theo lời Phật dạy. Một trong những pháp người đó thực hành là giữ chánh niệm trong bốn oai nghi đi, đứng, nằm, ngồi, hay khi làm bất cứ điều gì, cũng làm trong chánh niệm.
11 Tháng Năm 20239:41 SA(Xem: 1732)
Khóa Tu Thiền Tập Đơn Giản Để Sống An Lạc từ 14 đến 19 tháng 4 năm 2023 tại Chùa Tích Lan, Ontario.
02 Tháng Năm 202312:58 CH(Xem: 1686)
Mười Hai Duyên Khởi, cũng còn gọi là Mười Hai Nhân Duyên, là 12 nhân duyên liên kết nhau để hợp thành một chuỗi nhân quả (P: nidāna). 12 nhân duyên như 12 mắt xích hay 12 nguyên nhân đưa đến tình trạng Khổ của con người hay tái sinh.
30 Tháng Tư 20238:57 CH(Xem: 1438)
Der Buddha sagte: "Der Tathagata ist nur ein Wegweiser, alleine musst du gehen." Das heißt, du kennst nun den Weg, gehst alleine hin, verlass dich auf niemanden, der richtige Weg ist deine Weisheit, die dich zu deinem ursprünglichen Geist zurückbringt. Im ursprünglichen Geist sind alle Phänomene Buddha-Dharmas, und die Welt ist ein reines und glückliches Nirwana.
24 Tháng Tư 20236:07 CH(Xem: 1290)
Trong thiền Phật giáo có nhiều nguyên lý tâm linh dẫn đến mục tiêu cứu cánh là chuyển hóa tâm, cân bằng thân-tâm, phát triển tuệ giác, và giải thoát.
17 Tháng Tư 202310:01 SA(Xem: 1913)
Thiền Tánh Không do Hòa Thượng Thiền Chủ Thích Thông Triệt thiết lập, kết hợp những tinh hoa rút từ tiến trình tu chứng và thành đạo của Đức Phật Thích Ca, các truyền thống Phật Giáo Nguyên Thủy, Phật Giáo Phát Triển, Thiền Tông và kỹ thuật Thiền, được soi sáng bởi các khám phá đương thời của khoa học não bộ và các chứng ngộ của Thầy thành một hệ thống tu thiền sâu sắc, tân thời, rõ ràng và hiệu quả.
11 Tháng Tư 20237:56 CH(Xem: 2010)
Vai trò của khoa học não bộ rất quan trọng. Đây là kiến thức thời đại. Chúng ta mượn khoa học não bộ để đối chiếu cách thực hành của chúng ta qua Pháp của Phật. Có như thế chúng ta mới chứng minh được giá trị Pháp của Phật đối với mọi trình độ căn cơ. Chúng ta biết vì sao chúng ta thực hành sai, vì sao chúng ta thực hành đúng.
01 Tháng Tư 20239:35 SA(Xem: 1525)
Wir befinden uns mitten in einem wirbelnden Wasserstrudel, würden wir darin stehen bleiben, würden wir von dem absorbiert werden und wir werden ertrinken. Wenn wir uns bewegen würden, würden wir uns auch nur in diesem wirbelnden Strudel herum drehen. Aber wie können wir denn diesem Lebenskreis entkommen?
26 Tháng Ba 20237:30 CH(Xem: 1961)
Đã không biết bao năm qua, mình khờ dại đi tìm “Qua khỏi vùng sương mù là xứ thần tiên”. Đã bao lần thấy vùng sương mù, bao lần mơ ước sẽ gặp xứ thần tiên, nào có gặp được. Tìm cầu bên ngoài, làm sao có xứ thần tiên. Cuối đời mới biết xứ thần tiên thiệt ở trong tâm của mình.
24 Tháng Ba 202310:02 CH(Xem: 2032)
Đức Phật tự nhận: “Như Lai chỉ là người chỉ đường, các ông phải tự đi”. Các ông phải tự đi có nghĩa là các ông thấy ra con đường rồi, cứ tiến bước một mình, không được ỷ lại nơi ai khác, con đường chánh pháp là trí tuệ của mình sẽ đưa chúng ta trở về bản tâm. Trong bản tâm, tất cả pháp đều là Phật pháp, và thế gian là cõi Phật thanh tịnh an vui.
24 Tháng Ba 202310:18 SA(Xem: 1224)
Tài sản mà đức Phật nói đây không phải là tiền bạc, vòng vàng, châu báu, mà là tài sản về tinh thần, như niềm tin bậc giác ngộ, đạo đức, trí tuệ là những thứ tài sản không bao giờ bị đánh cắp, chiếm đoạt, trừ phi chính người sở hữu tài sản tâm linh đó tự mình phá hủy chúng. Các tài sản quý báu đó có tên gọi là: Tín tài, Giới tài, Tàm tài, Quý tài, Văn tài, Thí tài và Tuệ tài.
22 Tháng Ba 20234:26 CH(Xem: 1606)
Không phải hễ ngộ là chấm dứt hết lậu hoặc! Vì vậy, tuy hạt ngọc đã có sẵn, nhưng ta phải nỗ lực dụng công. Vô ngôn chính là phương thức làm cho Phật tánh bật ra vậy.
18 Tháng Ba 20239:58 SA(Xem: 1488)
Wir müssen in der Lage sein, zu erkennen, wann wir den Bedingungen folgen sollen und wann wir eventuell andere Bedingungen schaffen sollen, um im Einklang mit dem Universum leben zu können, denn wir sind die Schöpfer unseres Lebens, für jetzt und für die Zukunft.
15 Tháng Ba 202311:03 CH(Xem: 1968)
Thực tập phương thức làm chủ sự suy nghĩ, đó là cách ta trực tiếp huấn luyện tâm trở nên yên lặng hay trở nên thuần. Nó không lăng xăng dao động vì những chuyện thị phi (phải-trái) của thế gian.
13 Tháng Ba 202311:02 SA(Xem: 1172)
Những ai hủy phạm giới pháp mà lòng không biết tàm quý, không biết ăn năn, hối hận, không biết sám hối, không chịu từ bỏ tật xấu ác quay về với con đường thiện lương đạo đức, thì hiện tại dù họ đang sống trên đời, nhưng sống trong thống khổ, vì phải chịu trả giá những tội lỗi của họ gây ra...
08 Tháng Ba 20238:24 CH(Xem: 1774)
Hôm nay, thấy hoa thủy tiên nở rộ, hoa mai cũng e ấp đón gió mát, con biết mùa xuân sang. Đã tới mùa mừng sinh nhật Thầy. Thầy đã xuất hiện nơi cõi đời nhằm mùa xuân, Thầy đã thấy con đường, cũng một mùa xuân năm đó, rồi Thầy ra đi, một đêm cuối mùa đông.
08 Tháng Ba 20238:17 CH(Xem: 1663)
Chúng ta đang ở giữa biển nước xoáy, nếu chúng ta đứng lại nơi đó thì ta sẽ bị đắm chìm cuốn hút và chết đuối. Nếu chúng ta bước tới, cũng chỉ là loanh quanh trong biển nước xoáy thôi, bước tới hay bước lùi, có khác gì đâu, rồi cũng trôi giạt bồng bềnh trong biển đời, không ra khỏi. Vậy thì làm sao đây?
05 Tháng Ba 20239:03 CH(Xem: 1429)
GEDANKE heißt in Chinesisch “mạt na”. Wahrscheinlich wurde es aus dem Wort “Manah oder Manas“ in Sanskrit übersetzt. “mạt na” (S: Manah) oder Gedanke bedeutet die Denkfähigkeit oder das Denkvermögen. In English heißt er “the capacity of thought”, “the thinking faculty”. In Pali bedeutet das Wort Mano der Geist oder der Gedanke. Im Abhidharma wird Manha gleichgesetzt mit Bewusstsein (viññāna) und Geist (citta, Bewusstseinszustand).
05 Tháng Ba 20239:01 CH(Xem: 1107)
Ngày lành tháng tốt đối với người Phật tử là ngày đẹp trời, thuận lợi cho mình và cho mọi người tham dự, có thể xem là một trong những điều kiện góp phần vào kết quả chứ không phải là yếu tố tối quan trọng quyết định sự thành công hay thất bại. Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
28 Tháng Hai 20239:06 CH(Xem: 2353)
Chúng ta phải sáng suốt biết lúc nào nên tùy duyên, lúc nào phải tạo duyên tốt, phải biết mình sống có thuận pháp không, vì chính mình là chủ tạo ra cuộc đời của mình, trong bây giờ và mai sau nữa.
27 Tháng Hai 20238:19 CH(Xem: 1879)
Việc làm bếp đâu có khác việc tu tập. Làm bếp để sống, thì tu tập cũng để sống thôi. Cho nên những nguyên tắc để làm bếp tốt cũng là những nguyên tắc để tu tập tốt. Việc gì ta làm cũng là tu tập, con đường đời cũng là con đường tu, do nơi cái tâm của mình, nó thấy ra sao. Nó thấy ra sao, đó là cảnh giới mình đang sống.
25 Tháng Hai 20232:42 CH(Xem: 1750)
Trời đất vô tình, vạn vật vô tình, mà vạn vật biết sống hài hòa với hoàn cảnh tự nhiên. Chúng ta có trí, có tri giác, có tình cảm, vậy phải biết sống đời thiện lành, quan sát tâm mình từng giây phút, ý nghĩ đúng, lời nói đúng, hành động đúng...
23 Tháng Hai 20237:55 SA(Xem: 1226)
Sống ở đời ai cũng mong cầu được hạnh phúc. Hạnh phúc là gì? Các nhà tâm lý học ngày nay mô tả hạnh phúc là một trạng thái tâm lý tích cực của con người được thể hiện bởi cảm giác vui vẻ, thích thú, hài lòng trước những đầy đủ về vật chất và thoải mái về tinh thần. Nó khiến bản thân người ta cảm thấy yêu đời hơn.
18 Tháng Hai 20232:24 CH(Xem: 1413)
Das Naturgesetz regelt alle Phänomene. Es ist gleichzeitig ihr Evolutions- und Entwicklungsgesetz. Es gründet das Universum, regelt den Ablauf des Universums, schützt und pflegt die Existenz des Universums. Die Welt ist offenbar eine wunderbare Harmonie von Idappaccayatā.
14 Tháng Hai 20233:56 CH(Xem: 1551)
Đọc tụng bài kinh “Bát Đại Nhân Giác” chúng ta học theo tinh thần từ bi, lấy trí tuệ làm sự nghiệp của chư Phật, chư Bồ tát. Kinh nhắc nhở chúng ta tám điều quan trọng cần phải học hỏi tu tập. Đó là phải luôn quán xét vạn pháp trong đó có tấm thân ngũ uẩn của con người không thực chất tính nên nó vô thường, khổ, không, vô ngã...
13 Tháng Hai 202310:37 SA(Xem: 1579)
Mạt na hay Ý có nghĩa năng lực của tư tưởng hay năng lực tư duy, Trong tiếng Pāli, từ mano hay Ý có nghĩa tâm hay tư tưởng, Trong tiếng Pāli, từ mano hay Ý có nghĩa tâm hay tư tưởng tương đương trong tiếng Anh là “mind” hay “thought”. Trong A Tỳ Đạt Ma (Abhidharma), mạt na dùng để chỉ đồng nghĩa với THỨC (viññāna: consciousness) và TÂM
05 Tháng Hai 20236:14 CH(Xem: 1737)
Tánh giác không từ đâu đến. Nó không nằm trong quy luật duyên sinh của hiện tượng. Ta không thể khám phá nó khởi ra từ đâu khi có sự xuất hiện của con người trên quả đất.
28 Tháng Giêng 20237:39 SA(Xem: 1366)
Realität ist nicht 100%ig echt aber auch nicht 100%ig illusorisch. Oder „Das Gerade jetzt“ existiert, ist „echt“ und gleichzeitig „illusorisch“. Oder In der Realität ist eine Illusion vorhanden und in der Illusion existiert eine Realität.
25 Tháng Giêng 202311:14 SA(Xem: 1885)
Định luật Y Duyên Tánh vận hành tất cả thế gian. Nó cũng là định luật biến hóa và phát triển, là sức sống mãnh liệt, đã thành lập vũ trụ, điều hành vũ trụ, và bảo vệ duy trì sức sống của vạn vật. Thế gian biểu hiện sự hài hòa tuyệt vời theo sự biến hóa khách quan của “Y Duyên Tánh”. Vậy, các bạn thân ơi, đây có phải là một bức tranh puzzle tuyệt vời không?
24 Tháng Giêng 20233:16 CH(Xem: 1558)
Chỉ có người thực sự bước vào dòng Thánh mới kinh nghiệm được thọ thanh tịnh. Người còn nhiều dính mắc không bao giờ kinh nghiệm được nhận thức ngoài cảm giác.
18 Tháng Giêng 20237:43 CH(Xem: 2192)
Đất trời quê hương đang vào xuân, mong gởi một món quà nhỏ tặng cho bạn tri âm, mùa xuân trong tâm mình.
18 Tháng Giêng 20237:51 SA(Xem: 1504)
Der Buddhismus betrachtet die „Geburt“ nicht als Beginn eines neuen Lebens sondern die Geburt beginnt bereits mit dem Tod, dann folgt eine Rückkehr und eine erneute Geburt. Diesen Zyklus: Geburt und Tod, Werden und Vergehen, nennt man im Buddhismus den Daseinskreislauf (Samsara) und Alter ist ein Teil dieses Lebenskreislaufs.
17 Tháng Giêng 20231:21 CH(Xem: 1354)
Cái gì được nhận ra đầu tiên trong một sát na, và nhận rõ cuối cùng qua những chuỗi sát na tiếp theo, là đối tượng của nhận thức.
10 Tháng Giêng 20231:01 CH(Xem: 1486)
Thực tại là “giống như Thực” , đồng thời là “giống như Huyễn”. Đó là Trung Đạo. Nói cách khác nữa: Thực tại là không phải hoàn toàn Thực, cũng không phải hoàn toàn Huyễn. Cũng có thể nói: “Cái Đang là” vừa là “Thực” vừa là “Huyễn”.
08 Tháng Giêng 20235:46 CH(Xem: 1598)
Es gibt kein Phänomen oder Ereignis, das unabhängig und von selbst oder zufällig gebildet und entwickelt wird.
69,256