HỘI THIỀN TÁNH KHÔNG TRUNG ƯƠNG

Ni Sư Triệt Như: khóa BÁT NHÃ Trung Cấp 3 - Chủ đề11: TỔ BỒ ĐỀ ĐẠT MA

20 Tháng Bảy 20223:15 CH(Xem: 3040)
11 TITLE Video BAT NHA 3 cua Ni Su TRIET NHU for YOUTUBE
SLIDESHOW:
CLICK vào giữa hình để xem lớn hơn
Slide1Slide10Slide11Slide12Slide13Slide14Slide15Slide16Slide17Slide18Slide19Slide2Slide20Slide21Slide22Slide23Slide24Slide25Slide26Slide27Slide28Slide3Slide4Slide5Slide6
AUDIO:
CLICK icon tam giác để nghe - CLICK icon 3 dấu chấm để download


VIDEO:
CÓ THỂ XEM TRỰC TIẾP TRÊN CHANNEL: www.youtube.com/tanhkhong
Hoặc click LINK:https://youtu.be/_gj_vTfM_7Q
CLICK vào giữa hình để xem
click_to_watch
11 TITLE Video BAT NHA 3 cua Ni Su TRIET NHU for YOUTUBE

Line 2
KHÓA BÁT NHÃ LỚP TRUNG CẤP 3
BÀI ĐỌC THÊM 
https://www.tanhkhong.org/p105a3254/ht-thich-thong-triet-so-luoc-tieu-su-to-bo-de-dat-ma

B Đ Đạt Ma  – Bodhidharma (k. 440? - 528?)

 

Tuy gốc người Nam Ấn, nhưng tại Ấn không ai nhớ đến tên Ngài; trái lại, ở Trung Hoa, Nhật BảnTriều Tiên, và Việt Nam, từ hơn 1000 năm qua cho đến nay, Ngài đã là khuôn mặt vĩ đại đối với nền thiền học và văn hóa Phật giáo tại các nước này.

 

Truyền thống Thiền Tông

 

Lịch sử Thiền Tông Trung Hoa được mở đầu bằng vị Tổ thứ Hai Mươi Tám của Ấn độ là Bồ Đề Đạt Ma. Theo truyền thống tổ truyền Y-Bát của Phật trong lịch sử Thiền Tông Trung Hoa, gồm sáu vị:

 

1. Tổ Đạt Ma được xếp là Sơ Tổ.
2. Huệ Khả (487-593) là Nhị Tổ.
3. Tăng Xán (?-606) là Tam Tổ.
4. Đạo Tín (580-651) là Tứ Tổ.
5. Hoàng Nhẫn (602-675) là Ngũ Tổ.
6. Huệ Năng (668-713) là Lục Tổ.

 

Tổ đã mở màn một kỷ nguyên mới về Thiền bằng bốn câu kệ bất hủ:

 

Bất lập văn tự;
Giáo ngoại biệt truyền;
Trực ch nhơn tâm;
Kiến tánh thành Phật.
(Xem Giải thích thuật ngữ ở cuối bài)*

 

Chính bốn câu kệ này đã làm khởi sắc và hưng thịnh dòng Thiền Trung Hoa. Mãi thế kỷ thứ IX, ngài Khuê Phong Tông Mật* (780-841) xếp thiền do Tổ khai sáng là Tối Thượng Thừa Thiền*. Để rồi sau đó chư Thiền Đức Trung Hoa bắt đầu khai triển thông điệp đặc sắc nói trên để dụng công. Thực sự, thông điệp nói trên đã đặc biệt cho thấy nguyên tắc cơ bản của Thiền Tông là muốn đi đến nơi tối hậu của con đường đưa đến thoát khổ, giác ngộ, và giải thoát, tức thành Phật. Người thực hành thiền phải kiến nh* như đức Phật Thích Ca ngày xưa đã kiến tánh vậy (xem thêm Tiến Trình Tu Chứng của Đức Phật). Từ sau đó, kiến tánh đã trở thành chủ đề nồng cốt trong lịch sử phát triển Tổ Sư Thiền* của Thiền Tông Trung Hoa.

 

Từng thế hệ đi qua – gần 15 thế kỷ – âm ba của Tổ vẫn còn vang dội trong nhiệt tâm của người tu thiền muốn tìm cầu thoát khổ, giác ngộ, và giải thoát tích cực với bốn câu kệ nói trên.

 

Vì phương pháp tu thẳng của Tổ, nên lịch sử của Tổ mang rất nhiều huyền thoại. Tác dụng huyền thoại đó đã làm nổi bật con người đặc biệt của Tổ mà không nhà sử học nào gọi Tổ là A La Hán hay Bồ Tát như truyền thống Phật giáo trước thời Tổ thuộc hai hệ Nguyên Thủy và Phát Triển. Tên tuổi của Tổ cho đến nay vẫn còn được giới thiền học Đông phương cũng như Tây phương và giới võ lâm thế giới đều nhắc đến vị Tổ khai sáng môn phái Thiếu Lâm với niềm tôn kính sâu xa. Bốn câu kệ nói trên, tuy trong hai sử liệu Cao Tăng Truyện (hoàn thành năm 645) và Truyền Đăng Lục (hoàn thành năm 1002) không thấy ghi; trái lại, bốn câu kệ đó được thấy ghi trong “Pháp Chánh Truyền của Phật Thích Ca” do sử gia Tsung-Chien ghi lại vào năm 1257, gán cho Nam Tuyền Phổ Nguyện (748-834) là tác giả. (tr. 176, Thiền Luận quyển Thượng của Suzuki, bản tiếng Anh). Đúng hay sai, cho tới nay không có sử liệu nào chứng minh, nhưng cho đến đây – theo truyền thuyết sử Tổ Sư Thiền – tất cả người tu Thiền phương Đông cũng như phương Tây đều thừa nhận bốn câu kệ nói trên là thông điệp của Tổ Bồ Đề Dạt Ma truyền cho hậu thế phương hướng thực hành đạo thiền của Phật Thích Ca bằng những lối đơn giản nhất, thiết thực nhất, nhưng vô cùng khó khăn nhất. Đó là cách ch thẳng tâm người để “kiến tánh”. Vậy tâm đó là tâm gì? Tánh đó là tánh gì? Làm thế nào để kiến? Nếu không được giải thích rõ ràngthông điệp nói trên sẽ là chủ đề thuộc phạm vi công án như những công án trong Bích Nham Lục đã được thiền sư Viên Ngộ (1063-1135) biên soạn và hoàn thành từ thế kỷ 12 (năm 1125) trước đây…

 

Sơ lược tiểu s

 

Về năm sinh và năm tịch của Tổ Bồ Đề Đạt Ma, có nhiều truyền thuyết khác nhau: có sách ghi ngài sinh vào năm 470, tịch năm 543; sách khác lại ghi sinh năm 440, đến nam Trung Hoa năm 475, vào lúc nước Tàu chia ra làm hai miền Nam Bắc, gọi là Nam Triều, Bắc Triều. Tuy nhiên, có hai nguồn tài liệu ghi lại về hành trạng của Tổ Bồ Đề Đạt Ma là Truyền Đăng Lục của thiền sư Đạo Nguyên soạn vào năm 1004, trong đó ghi rằng Bồ Đề Đạt Ma đến đất Lương vào năm 520, cuối cùng tịch vào năm 528 vào ngày mùng 5 tháng 10, vì bị đánh thuốc độc. Trong lúc đó, theo Cao Tăng Truyện, do ngài Đạo Tuyên soạn, được hoàn thành vào năm 645 thì Tổ Bồ Đề Đạt Ma thọ trên 150 tuổi, tịch ở Lô Giang, và không ghi ngày tháng cùng nguyên nhân tịch. Còn theo ngài Đạo Nguyên ghi trong Truyền Đăng Lục, sau khi truyền Y Bát cho Tổ Huệ KhảBồ Đề Đạt Ma tịch vào ngày mùng 9 tháng 10 vì bị đánh thuốc độc, được mai táng tại Chùa Tinglin trên núi Tai Gấu (Hùng Nhĩ sơn) ở huyện Lư Thị, tỉnh Hà Nam. Ba năm sau, Tống Vân* (Sung Yun) thỉnh kinh từ Ấn Độ trở về, gặp sư tại rặng núi Thông Lãnh (Turkestan, núi này ở Trung Á), chỉ quảy trên vai một gậy và treo một chiếc dép trên đó, nói rằng sư trở về Ấn Độ, và còn thông báo cho Tống Vân biết là “Chúa của ông đã chán đời rồi”. Khi Tống Vân về triều thì quả nhiên vua Hiếu Minh Đế (Đông Ngụy) đã băng hà. Vua Hiếu Trung lên nối ngôi. Tống Vân đem việc ấy tâu lại, Vua ra lệnh mở cửa tháp… Dở quan tài ra, quả nhiên trong quan tài chỉ còn lại một chiếc dép. Vua ra lệnh đưa dép về chùa Thiếu Lâm. Đến đời Đường, năm 728, môn đồ lại dời chiếc dép về chùa Hoa Nghiêm.

 

Sinh quán của ngài ở Kanchi (Hương Chí), kinh đô miền nam Ấn, vương quốc Pallava. Ngài gốc Bà La Môn và là con thứ ba của vua Simhavarman. Khi còn trẻ, ngài tên là Bồ Đề Đa La (Bodhitāra/Bodhidhana), sau theo học Phật pháp với Tổ thứ 27 là Bát Nhã Đa La (Praatāra) (?-457) do chính phụ vương của ngài mời từ trung tâm Phật giáo nước Ma Kiệt Đà (Magadha). Sau khi vua cha băng hà, ngài quyết chí xuất giacầu xin Tổ Bát Nhã Đa La (Prajñatāra) nhận làm đệ tử. Tổ hoan hỷ nhận và làm lễ thế phát và truyền giới cụ túc. Tổ đặt pháp danh lại là Bồ Đề Đạt Ma.

 

Một hôm, Tổ Bát Nhã Đa La hỏi sư:
–        Giữa muôn pháp (all things), có cái gì là không sắc (formless)?
Sư đáp:
–        Không khởi vọng là không sắc.
Tổ hỏi:
–        Giữa muôn pháp, cái gì là lớn nhất?
Sư đáp:
–        Tánh của pháp là lớn nhất.
 

Sau đó sư được Tổ Bát Nhã Đa La thừa nhận là rất đúng và trao truyền Y Bát của Phật cho sư. Sư chính thức được Tổ Bát Nhã Đa La công nhận là người kế vị.

 

Tổ dặn: Ngươi tạm giáo hóa ở nước này, sau sang Trung Hoa mới thật là nhơn duyên lớn. Song đợi ta diệt độ khoảng 60 năm sau sẽ đi. Nếu ngươi đi sớm, sau e có việc không tốt.

 

Tổ tịch rồi, ngài vẫn ở lại nước nhà giáo hóa. Người đồng sư với ngài là Phật Đại Tiên (Buddhamahàrishicùng chung sức giáo hóa. Người đương thời gọi hai ngài là “Hai Đệ Tử Cam Lồ” (the Two Nectar Disciples) của Tổ Bát Nhã Đa La có khả năng “Mở cửa cam lồ” (Mở cửa bất diệt) (Cam lồ: Skt: Amrta: bất diệt).

 

Đến Trung Hoa

 

Về sau, ngài được vua Dị Kiến thỉnh vào cung giáo hóa. Thấy đã đến lúc cần phải sang Trung Hoa, ngài đem lời huyền ký của Tổ Bát Nhã Đa La thuật lại với nhà vua rằng ngài cần phải sang Trung Hoa để truyền bá Phật pháp. Thấy không thể giữ ngài lại được, nhà vua đồng ý.

 

Vào thời đó, đường bộ bị rợ Hung Nô ngăn chận và vì nước Pallava giao lưu thương mãi với các nước Đông Nam Á nên ngài đi bằng thuyền buôn từ cảng Mahaballipu-ram. Phải mất ba năm sau ngài mới đến miền nam Trung Hoa vào năm 520.

 

Lúc bấy giờ nước Tàu chia ra hai vùng rộng lớn đối lập nhau, gọi là Nam Triều và Bắc Triều. Nước Lương thuộc Nam Triều. Lương Vũ Đế (464-549) là vị vua thâm tín Phật giáo. Trong 48 năm trị vì, nhà vua đã áp dụng giáo lý nhà Phật để chăn dân với hạnh bồ tát.

 

Trước khi gặp Tổ Bồ Đề Đạt Ma, nhà vua đã mời ba đại pháp sư là ngài Pháp VânTrí Tạng, và Tăng Mân đến giảng Phật lý. Ngoài ra, nhà vua cũng mời các vị cao tăng khác phụ trách dịch kinh, như các ngài Tăng Già Ba La (Sanghapāla), Mạn Đa La Tiên (Mandrarisi). Năm 504, nhà vua đã cử hành lễ “Xả Đạo Phụng Phật”, tức là bỏ đạo Nho, đạo Lão để phụng sự đạo PhậtLiên tiếp trong nhiều năm, nhà vua đã tỏ ra tích cực phụng sự Phật pháp trên nhiều mặt, nhất là việc làm phúc thiện, và tự mình thực hành giữ giới. Năm 511, chính thức từ bỏ rượu thịt. Năm 517, ra sắc lệnh cấm dân chúng cúng tế bằng rượu thịt, chỉ bằng các thứ hoa quảĐặc biệt, nhà vua ra lệnh dẹp bỏ các đạo quan (chùa miếu) của đạo Lão và các đạo sĩ hoàn tục. Năm 519, thọ Bồ Tát Giới tại chùa Thảo Đường với ngài Tuệ Ước. Ngoài ra, nhà vua cũng cho dựng lên nhiều chùa khắp nơi và mở nhiều Pháp hội, như “Vô Giá Đại Hội”, “Bình Đẳng Pháp Hội”, “Cứu Khổ trai Đàn”, “Đại Pháp Hội”.

 

Khi Bodhidharma đến Trung Hoa vào thế kỷ thứ 6, nước Tàu có khoảng 2000 ngôi chùa Phật giáo và 36000 tăng lữ ở miền nam. Còn miền bắc có khoảng 36000 ngôi chùa và khoảng 80000 tăng lữ.

 

Gặp Lương Vũ Đế

 

Khi đến huyện Phiên Ngung, tỉnh Quảng Châu, vua Lương Vũ Đế (Liang Wu Ti) đón sư về Kim Lăng (kinh đô nhà Lương) (có sách ghi Kiến Nghiệp, Nam Kinh). Theo Truyền Đăng Lục do ngài Đạo Nguyên soạn vào năm 1004, ghi lại cuộc tiếp kiến như sau:

 

Lương Vũ Đế hỏi:

–        Từ ngày lên ngôi vua đến nay, trẫm cất chùa, chép kinh, độ tăng không biết sao kể xiết, như vậy có công đức gì không?

Sư đáp: 

–        Chẳng có công đức gì cả.

Hoàng đế hỏi:

–        Vì sao không công đức?

Sư đáp: 

–        Tất cả những việc đó chỉ là nhân hữu lậu, chỉ đem đến quả nhỏ trong cõi trờicõi người, như bóng theo hình. Tuy có, nhưng không thực.

Đế hỏi:

–        Thế thì công đức nào là công đức chân thực?

Sư đáp: 

–        Biết phải thanh tịnh, diệu và tròn đầy. Thể của nó là không (śūnyatā: emptiness). Ta không thể đạt được công đức như thế bằng phương tiện thế gian.

Đế hỏi: 

–        Ý nghĩa cao nhất của thánh đế là gì?

Sư đáp: 

–        Rỗng không, chẳng có gì là thánh!

Đế hỏi: 

–        Trước mặt trẫm là ai?

Sư đáp: 

–        Không biết!

 

Vì thiên trọng về hình tướng và phước hữu lậu, chưa có dịp tìm hiểu và học hỏi tư tưởng Không trong học thuyết Bát Nhã, nên sau khi nghe Bồ Đề Đạt Ma nói về Không, bằng cách phủ nhận giá trị công đức lập chùa, dịch kinh, chép kinh, bố thítrì giới của mình, Lương Võ Đế hoàn toàn không hiểu biết về ý nghĩa Không. Đến khi Bồ Đề Đạt Ma đi rồi, sau này Lương Võ Đế mới nhận ra được nghĩa lý thâm sâu về Không Công Đức, Không Thánh Đếnhà vua bắt đầu nghiên cứu hệ thống kinh Bát NhãCuối cùng, nhà vua thông suốt tinh thần Bát Nhãchú giải được 50 quyển trong bộ Ma HBát Nhã Ba La Mật  Chú kinh. Năm 533, nhà vua giảng kinh Ma HBát Nhã Ba La Mật tại chùa Đồng Thái.

 

Diện bích

 

Thấy Lương Vũ Đế chưa đủ khả năng lãnh hội tư tưởng Kng trong học thuyết Bát Nhã, Sư đành cáo từ, vượt Trường Giang sang nước Ngụy, và dừng lại ở Thiếu Lâm Tự (Shao-Lin-Ssu) núi Tung Sơn (tỉnh Hà Nam). Trong chín năm, Sư thường tọa thiền xoay mặt vào vách (diện bích), người đương thời không hiểu phương cách tọa thiền của Sư, nên gọi sư là “Bích Quán Bà La môn” (the “Wall-Gazing Brāman”).

 

Đệ t

 

Lúc bấy giờ có ông tăng tên là Thần Quang (Shen-Kuang, 487-593) nghe danh Tổ, đến xin cầu Tổ dạy đạo, nhưng Tổ không nhìn tới. Thần Quang không nản chí, nghĩ rằng: “Người xưa cầu đạo chẳng tiếc thân mạng, nay ta chưa được một trong muôn phần của các ngài”. Một hôm, nhằm tiết mùa đông, ban đêm tuyết rơi nhiều, Thần Quang vẫn đứng dầm mình trong tuyết, chắp tay hướng về Tổ, hy vọng được Tổ chú ý. Đến sáng, tuyết lên khỏi đầu gối. Quả nhiên, Tổ quay đầu hỏi:

–        Ông muốn cầu gì?

Thần Quang đáp:

–        Ngưỡng mong Hòa Thượng từ bi mở cửa cam lồ, rộng độ chúng con.

Tổ nói:  

–        Diệu đạo vô thượng của chư Phật dù trải qua nhiều kiếp cố gắng, hay làm được việc khó làm, hay nhịn được việc khó nhịn, còn không thể đến thay! Huống là dùng chút công lao nhỏ này mà cầu được pháp chân thừa sao?

Thần Quang nghe quở, bèn lấy đao chặt cánh tay trái đưa lên trước mặt Tổ để tỏ lòng thiết tha cầu đạo.

Tổ biết đây là bậc pháp khí (người có ý chí mạnh mẽ, có khả năng tu đến thành công), bèn nói:

–        Chư Phật lúc ban đầu cầu đạo, vì pháp quên thân. Nay ông chặt cánh tay để trước tôi, tâm cầu đạo như vậy cũng khá.

Thần Quang hỏi:

–        Pháp ấn (pháp chân thực, không thay đổi, có chuẩn mực) của chư Phật con có thể được nghe chăng?

Sư nói:  

–        Pháp ấn của chư Phật không phải từ người khác mà được.

Thần Quang thưa:

–        Nhưng tâm con không an, xin thầy dạy pháp an tâm.

Sư bảo

–        Đưa tâm đây, ta an cho.

Thần Quang thưa:

–        Con tìm tâm không được.

Sư nói:  

–        Thế là ta đã an tâm cho ông rồi đó.

Thần Quang nhân câu nói này của Tổ liền nhận ra (ngộ) ý nghĩa. Tổ liền đổi tên lại là Huệ Khả.

 

  • Theo Truyền Đăng Lục ghi: Tổ Bồ Đề Đạt Ma có hai đệ tử tuy nhỏ mà tuấn tú (particularly brilliant) là Đạo Dục (Tao-yu) và Huệ Khả (Hui-k’o). Tổ đã dạy hai vị này bốn pháp đặc biệt:
1. Pháp An Tâm,
2. Pháp Phát Hạnh,
3. Pháp Thuận Vật, và
4. Pháp Phương Tiện.

 

Về An Tâm, Tổ dạy Bích quán. Ngưng lặng nhìn vách, không mình, không người, phàm thánh như một. Đó là an tâm.

Về Phát Hạnh, Tổ dạy Tứ hành.

Về Thuận Vật, Tổ dạy Phòng ngừa sự chê bai, gièm sim.

Về Phương Tiện, Tổ dạy Đừng chấp trước.

 

  • Ngoài ra trong đoạn khác, Truyền Đăng Lục ghi thêm mẫu chuyên dạy đạo của Tổ với ngài Huệ Khả như sau:

Sư lúc đầu ở Thiếu Lâm Tự chín năm, vì Nhị Tổ nói pháp, chỉ dạy rằng:

Ngoài dứt các duyên,
Trong bặt nghĩ tưng[1],
Tâm như tường vách,
Mới vào được Đạo.

 

Huệ Khả trình bày đủ mọi cách về tánh lý của tâm, nhưng lần nào sư cũng đáp “chẳng phải”, nhưng không nói gì về tâm thể vô niệm[2].

 

Một hôm, Huệ Khả đến gặp Tổ, nói:

–    Con đã dứt hết các duyên bên ngoài rồi.

Tổ hỏi:

–    Có đoạn diệt[3] không?

Khả đáp:

–    Chẳng thành đoạn diệt.

Tổ hỏi:

–    Lấy gì để tin chẳng phải là đoạn diệt?

Khả đáp:

–    Con thường biết rõ ràng, còn nói thì không thể được.

Tổ đáp:

–    Đó là chỗ bí quyết tâm truyền của chư Phật, ngươi chớ hồ nghi”.

 

Người kế thừa

 

Ni Tổng Trì: họ Tiêu, tên Minh Luyện, vốn là công chúa, con gái vua Lương Vũ ĐếNi sư theo học với Tổ Đạt Ma cùng với Đạo Phó, Đạo Dục, và Huệ Khả.

 

Theo Cảnh Đức Truyền Đăng Lục, sau khi ở chùa Thiếu Lâm gần chín năm, thấy cơ duyên đã đến gần, Tổ gọi môn nhân đến bảo:

 

–      Ngày ta trở về sắp đến, các người thử trình lên chỗ sở đắc[4] của mình.

Đạo Phó thưa: Theo chỗ thấy của con, chẳng chấp văn tự, chẳng lìa văn tự, đây là dụng của Đạo.
Tổ ấn khả (Tổ ấn chứng, thừa nhận cho là được, hoặc là đúng): Ông được phần da của ta.
Bà ni Tổng Trì thưa: Nay chỗ hiểu của con, như Tổ A Nan thấy nước Phật A Súc[5] chỉ một lần, không thấy lại nữa.
Tổ ấn khả: Bà được phần thịt của ta.
Đạo Dục thưa: Bốn đại vốn không, năm ấm (uẩn) chẳng thật, chỗ thấy của con không có một pháp có thể được (khả đắc).
Tổ ấn khả: Ông được phần xương của ta.
Chót hết đến Huệ Khả, ngài bước ra đảnh lễ, rồi lui lại, đứng im.
Tổ nhìn hồi lâu, rồi ấn khả: Ông được phần tủy của ta.

Một hôm, Tổ gọi Huệ Khả đến bảo:

 

–        Xưa Như Lai đem Đại Pháp Nhãn tạng trao cho Tổ Ca Diếp*, lần lượt truyền đến ta. Nay ta đem trao lại cho ngươi, ngươi phải truyền trao không để dứt mất. Cùng trao cho ngươi y tăng già lê và bát báu để làm pháp tín. Mỗi thứ tiêu biểu cho một việc, ngươi nên biết.

 

Huệ Khả thưa: Xin thầy từ bi chỉ dạy mọi việc.

 

Tổ dạy: Trong truyền tâm ấn để khế hợp chỗ tâm chứng, ngoài trao ca sa để định tông chỉĐời sau có nhiều người cạnh tranh nghi ngờ, họ sẽ nói: “Ta là người Ấn, ngươi là người Hoa, căn cứ vào đâu mà được pháp, lấy gì để minh chứng?” Ngươi gìn giữ pháp y này, nếu gặp tai nạn, ngươi đem ra làm biểu tín thì sự giáo hóa không bị trở ngại. Hai trăm năm sau khi ta diệt độy bát này dừng lại, không truyền vì lúc đó Phật pháp rất thạnh hành. Chính khi ấy người biết đạo thật nhiều, người hành đạo quá ít, người nói lý thì nhiều, người ngộ lý thì ít. Tuy nhiên, người thẩm thông lặng chứng có hơn ngàn vạn. Ngươi gắng xiển dương, chớ khinh người chưa ngộ. Nghe ta nói kệ:

 

Ta sang đến cõi này,
Truyền pháp cứu mê tình.
Một hoa n năm cánh,
Nụ trái tự nhiên thành.

 

Tổ lại bảo: Ta có bộ kinh Lăng Già bốn quyển là Phật nói tột pháp yếu, cũng giúp cho chúng sanh mở, bày, ngộ, nhập kho tri kiến Phật[6]. Nay ta trao luôn cho ngươi. Ta từ Nam Ấn sang đây đã năm phen bị thuốc độc mà không chết, vì thấy xứ này tuy có khí Đại Thừa mà chưa ứng hợp nên ta lặng lẽ ngồi lâu chờ đợi. Nay đã truyền trao xong, đã có thủy, ắt phải có chung vậy.

 

Sau đó, Ngài cùng đồ chúng đi đến Võ Môn ở chùa Thiên Thanh. Ngài lưu lại đây ba hôm, rồi ngồi an nhiên thị tịch, vào ngày mùng 9 tháng 10 năm Bính Thìn (năm 529). Hơn hai tháng sau, đến ngày 18 tháng chạp chùa cử hành lễ đưa nhục thân của ngài nhập tháp tại chùa Định Lâm, núi Hùng Nhĩ.

 

Đời Đường Đại Tông, sư được ban thụy là Viên Giác Đại Sư. Sư được Thiền Tông Trung Quốc xem là Sơ Tổ Thiền Tông, tức Tổ thứ nhất của Thiền Tông Trung quốc.

 

(Tổng hợp các sách: The Zen Teaching of Bodhidharma, bn dịch của Red Pine, trix-xiii; S 33 Vị T Thiền Tông n Hoa, của thiền Sư Thanh Từ, tr. 160-170; Lịch s Phật giáo Trung Quốc, của soạn giả H.T. Thích Thanh Kiểm; Essay in Zen Buddhism của Suzuki, tập I, tr. 20, 37, 86, 95, 107, 108, 169, 232, 365; Zen Training ca Katsuki Sekida, tr. 36-37; Chan Insights and Oversights, tr. 129-135, của Bernard Faure; Zen Buddhism: A History, tr. 85-98).

 

 

GIẢI THÍCH THUẬT NGỮ

 

1.   Bất lp văn tự: Không dùng lời văn chữ viết. Đây là sự mô tả của Tổ Đạt Ma, nội dung nói lên phương tiện dụng công đến nơi cuối cùng là “ngoài lời” hay “không lời”. Điều này phù hợp với sự mô tả của đức Phật Thích Ca là sự thành đạo của đức Phật dựa trên “atakkāvacara”. Thiền tông mô tả nội dung đưa đến giác ngộ không có chữ nghĩa lời nói nào có thể dùng để chỉ dạy được; trái lại, phải từ nơi tâm tĩnh lặng ca thầy truyền thẳng đến tâm tĩnh lặng của trò. Cho nên mở đầu thông điệp đặc sắc trên, Thiền Tông mới đưa ra mẫu “Bất lập văn tự” (the non-use of writing).

 

Sau này, trong Ngũ Đăng Hội Nguyên và Vô Môn Quan có ghi chép việc đức Phật truyền pháp môn tối hậu, không dựa vào văn tự, truyền riêng ngoài giáo cho ngài Đại Ca Diếp. Đó là chuyện tích “Niêm hoa vi tiếu trên hội Linh Sơn”. Nội dung ghi lại chuyện xảy ra trên núi Linh Thứu, đức Phật thăng tòa, đưa cành hoa lên trước đại chúng, rồi im lặngMọi người đều ngơ ngác, không hiểu ý Phật muốn nói điều gì. Cùng ngay khi đó, Tôn Giả Ca Diếp nhìn hoa, rồi mỉm cườiĐức Phật liền tuyên bố trước đại chúng: “Ta có chánh pháp nhãn tạngNiết Bàn diệu tâmthực tướng vô tướngvi diệu pháp môn, không lập văn tự, nay phó chúc cho Đại Ca Diếp”. Chuyện này được ghi lại trong tác phẩm Liên Đăng Hội Yếu, do ngài Hội Ông Ngô Minh, một nhà Phật học thâm sâubiên soạn vào năm 1220, hoặc 1227, tại Trung Hoa. Từ sau đó, tích Niêm Hoa Vi Tiếu được truyền sâu rộng trong giới tu thiền Á châu, gồm các nước Trung Hoa, Nhật BảnTriều TiênViệt Nam.

 

Bộ sách Liên Đăng Hội Yếu gồm 30 quyển, nội dung ghi lại về sử của bảy vị cổ Phật, sử của Ngũ Gia Thiền tông, gồm năm tông phái Thiền – vốn là do pháp hệ Thiền từ Lục Tổ Huệ Năng truyền xuống – hoạt động sâu rộng tại các tỉnh thuộc miền nam Trung Quốc:

 

  1. Quy Ngưỡng Tông, do đệ tử ngài Quy Sơn Linh Hựu (771-853) là Huệ Tịch (840-916) đến núi Ngưỡng Sơn (tỉnh Quảng Tây) thành lập thiền viện, xiển dương tông phong của thầy mình, lập ra tông Quy Ngưỡng.

 

b. Lâm Tế Tông, do ngài Lâm Tế Nghĩa Huyền (?-867) thành lập.

 

c. Tào Động Tông, do hai ngài Động Sơn Lương Giới (807-869) và Tào Sơn Bổn Tịch (840-991) thành lập.

 

d. Vân Môn Tông, do ngài Vân Môn Văn Yến (864-949) thành lập.

 

e. Pháp Nhãn Tông, do ngài Pháp Nhãn Văn Ích (885-958) thành lập.

 

2. Giáo ngoại biệt truyền: Truyền ngoài giáo lý (Special transmission outside the teachings), tức không dựa vào văn tự ngữ ngôn trong kinh để truyền dạy người tu thực hànhTrái lạichỉ thẳng vào tâm và tính, giúp người tu thiền có khả năng kinh nghiệm trạng thái tâm và tính đó như thế nào. Đây là pháp thiền của Tổ Đạt Ma. Về sau, giáo ngoại biệt truyn trở thành chủ trương của Tổ Sư Thiền, tức Thiền Tông.

 

Thiền Tông xếp phương thức tu tập của mình là “giáo ngoại”. Còn các tông phái khác là “giáo nội” vì dựa theo kinh, luật, luận để tu tập.

 

3. Trực chỉ nhân tâm: Chỉ thẳng tâm người (Pointing directly to the human’s mind).

 

4. Kiến tánh thành Phật: Thấy tánh thành Phật (Attainment of buddhahood by realizing or perceiving the true nature of the world phenomena). Nhận ra chân tánh hiện tượng thế gian gồm pháp giới tánh là tathatā và pháp tánh là idappacayatā (điều kiện tính riêng biệt) và những nguyên lý tương quan nhân quả trong thế giới hiện tượngThiền Tông chủ trương muốn thành Phật, thành Tổ, người tu thiền dùng trí huệ Bát Nhã để thấu suốt chân tánh của hiện tượng thế gian.

 

5. Tổ Sư Thiền: Pháp thiền do Sơ Tổ Đạt Ma truyền dạy tại chùa Thiếu Lâm, núi Tung Sơn (Trung Hoa), gồm tiến trình của bốn câu kệ nêu trên. Bốn kệ này mới thực sự chính là chủ trương của Tổ Sư Thiền mà bắt đầu là Tổ Đạt Ma.

 

Sau đó tiếp nối đến Lục Tổ Huệ Năng và những hệ thống thuộc dòng thiền của đệ tử Lục Tổ thiết lập, gọi là Ngũ Gia Thất Tông*. Đặc biệt, điểm trọng yếu của Tổ Sư Thiền mà chúng ta cần lưu ý gồm hai điểm:

 

Một là chỉ thẳng vào tâm người. Phần ch thẳng này lại không được áp dụng rộng rãi cho đại chúng mà chỉ có vị thầy sáng đạo, hay đã kiến tánhnhận ra trong số đệ tử của mình có người học trò nào có căn cơ cao, có kinh nghiệm tu tập thiền định, có pháp khí đại thừa (quyết tâm tiếp tục độ sinh) mới trực tiếp truyền riêng cách nhận ra tâm người, thực sự là tâm gì trong số ba loại tâm: (1) tâm phàm phu, (2) tâm bậc thánh và (3) tâm Phậttức tâm Tathā.

 

Hai là, khi người học trò đã nhận ra được bản tâm của mình, thực sự là tâm Phật rồi, vị thầy mới hướng dẫn tiếp cách thực hành để nhận ra chân tánh hiện tượng thế gian như Phật Thích Ca đã trải qua giai đoạn đó trong tuần lễ thứ năm.

 

Riêng phần Sơ Tổ Đạt Ma, ngài còn dạy thêm nhiều pháp cho đệ tử. Trong đó có pháp Nhị Nhập Tứ Hạnh được xem như phương tiện hướng dẫn đệ tử đến nơi kiến tánh.

 

Vào thế kỷ thứ IX, trong quyển Thiền Nguyên Chư Thuyên Tập Đô Tựthiền sư Tông Mật đã xếp thiền của Tổ Đạt Ma là Tối Thượng Thừa Thiền trong số năm loại thiền đương thời hoạt động tại Trung Hoa, gồm:

 

  1. Ngoại Đạo Thiền: Người tu thiền thích cảnh giới trên, chán cảnh giới dưới.

 

  1. Phàm Phu Thiền: Người tu thiền tin lý nhân quả một cách chân thật, nhưng cũng do tâm thích, chán mà tu tập.

 

  1. Tiểu Thừa Thiền: Người tu thiền này chỉ ngộ lý ngã không.

 

  1. Đại Thừa Thiền: Người tu thiền này chỉ ngộ lý ngã khôngpháp không.

 

  1. Tối Thượng Thừa Thiền: Người tu thiền này đốn ngộ tâm mình vốn xưa nay thanh tịnh, vốn không phiền não, vốn đầy đủ trí tính vô lậu, tâm này là Phật, rốt ráo không khác; nương theo đó mà tu, gọi là Tối Thượng Thừa ThiềnTối Thượng Thừa Thiền này là cội gốc của tất cả pháp thiền khác. Nó là do môn đệ của Tổ Đạt Ma truyền nối. Nếu có thể tu tập dần dần thì chứng được trăm nghìn tam muội.

 

Ngài kết luận, Thiền do ngài Đạt Ma truyền chính là Tối Thượng Thừa Thiền, cũng gọi là Như Lai Thanh Tịnh Thiền (gọi tắt: Như Lai Thiền) hay gọi là Nhất Hạnh Tam Muội (Ekavyūha-Samādhi), hoặc Chân Như Tam Muội (Tathatā-Samādhi).

 

Trong lịch sử Thiền Tông Trung quốc, qua lối nhận định trên của ngài Tông Mật về thiền truyền lại cho đệ tửchúng ta thấy ngài Tông Mật là một thiền sư thật sự trình bày đầy đủ và rốt ráo thiền của Tổ Đạt Ma. Nhưng vì ngài đặt nặng thiền và giáo cần đi đôi hay thành một, và đặt nặng về tu Chân Như Định, xem đó là Tam muội vương căn bản mà Phật đã qua đó mà thành đạotrở thành vị Phật lịch sử, nên bị một số tông phái thiền khác xem Như Lai Thanh Tịnh Thiền không phải là Tổ Sư Thiền. Thứ nhất là đặt nặng giáo nội, chớ không nhắm đến giáo ngoại. Thứ hai là ngài Tông Mật xem Nhất Hạnh Tam Muội hay Chân Như Tam Muội là phương tiện tối hậu của Như Lai Thiền. Trong lúc đó, giữa thế kỷ thứ IX, thiền hét, đánh... lại bắt đầu thịnh hành. Trong đó, nổi bật nhất là thiền do ngài Lâm Tế (?-867) hướng dẫn bằng tiếng hét. Còn ngài Đức Sơn (782-865) thì dùng gậy để khai ngộ người học. Từ hai lý do này Thiền của Tổ Đạt Ma phải bị mai một tại Trung Hoa.

 

Đến thế kỷ thứ X, người đầu tiên dùng từ “Tổ Sư Thiền” có lẽ bắt đầu từ ngài Quy Sơn và người được ghi lại về từ “Tổ Sư Thiền” là ngài Ngưỡng Sơn Huệ Tịch, học trò ngài Quy Sơn.

 

Dưới đây chúng tôi trích dẫn một đoạn ngắn trong việc xác định Tổ Sư Thiền của ngài Huệ Tịch đối với ngài Hương Nghiêm Trí Nhàn.

 

Hương Nghiêm Trí Nhàn: Hsiang Yen (802-898). Thọ 96 tuổi. Đệ tử ngài Quy Sơn.

 

Sư quê ở Thanh Châu, chán tục, xuất gia, đi tham vấn các nơi để học Thiền. Sư trụ lại tại thiền viện ở núi Quy. Thiền sư Quy Sơn nhận ra sư có khả năng trở thành một nhà học Phật cỡ lớn, và cố ý làm cho sư tỉnh ngộ. Một hôm, Quy Sơn bảo:

 

–    Ta nghe ngươi hồi ở chỗ tiên sư Bá Trượng, ngươi có khả năng hỏi một đáp mười, hỏi mười đáp trăm. Điều này có thể được vì ngươi thông minh lanh lợi, và do sức hiểu và suy nghĩ của ngươi; nhưng tất cả điều này là cội gốc của sanh tử. Giờ đây thử nói một câu khi cha mẹ chưa sanh xem? Bản lai của ngươi là gì trước khi cha mẹ sanh?

 

Sư bị câu hỏi này làm mờ mịt, không đáp được. Trở về liêu, sư soạn hết sách vở đã học qua, tìm một câu đáp, trọn không thể có. Sư than:

 

–    Bánh vẽ chẳng no bụng đói.

 

Sư đến cầu Quy Sơn nói phải cho sư biết rõ. Quy Sơn bảo:

 

–    Nếu ta nói cho ngươi, về sau ngươi sẽ chửi ta; ta nói là việc của ta, đâu can hệ gì đến ngươi.

 

Sư bèn đem những sách vở đã thu thập được, đốt hết. Sư nói:

 

–    Đời này chẳng học Phật pháp nữa, chỉ làm tăng thường, làm việc cơm cháo, khỏi nhọc tâm thần.

 

Sư khóc, từ giã Quy Sơn, ra đi. Thẳng đến Nam Dương, chỗ ngôi mộ của quốc sư Huệ Trung, sư trụ tại đây.

 

Một hôm, nhân giẫy cỏ, sư lượm hòn gạch, ném trúng cây tre, vang lên tiếng kêu. Ngay đó, sư liền tỉnh ngộ, phá lên cười. Sư trở về am, tắm gội, thắp hương, nhắm hướng núi Quy, đảnh lễtán thán ngài:

 

–    Hòa Thượng từ bi, ơn hơn cha mẹ. Nếu ngày đó nói hết cho con thì sao có việc này xảy ra?

 

Sau đó sư làm một bài tụng:

 

“Tiếng dội lùm tre quên sở tri
Có gì đối trị giả tu trì
Đổi thay thần sắc nêu đường cổ
Nếp cũ tiêu điều chẳng trệ si
Chốn chốn dạo qua không dấu vết
Sắc thanh nào nhiễm được uy nghi
Mười phương đạt giả đều như vậy
Tối thượng là đây hết nói gì”.

 

Quy Sơn nghe được, nói với Ngưỡng Sơn:

 

–    Kẻ này đã ngộ.

 

Ngưỡng Sơn thưa:

 

–    Điều này có lẽ máy tâm trí trước thuật được, hoặc kết quả của quán tính đọc và viết làm ra. Xin đợi con đến dò xét mới chắc.

 

Sau đó, Ngưỡng Sơn đến thăm Trí Nhàn, bảo:

 

–    Hòa Thượng khen ngợi sư đệ đã phát minh đại sự. Thử nói về điều đó xem.

 

Trí Nhàn ngâm bài tụng trước cho Ngưỡng Sơn nghe. Ngưỡng Sơn bảo:

 

–    Đó là do trước kia học tập ghi nhớ mà thành; nếu thật chánh ngộ, hãy làm bài tụng khác.

 

Trí Nhàn nói tụng:

 

–    “Năm xưa nghèo chưa thật nghèo

Năm nay nghèo mới thật nghèo

Năm xưa nghèo vẫn còn có đất cắm dùi

Năm nay nghèo, dùi cũng không”.

 

Ngưỡng Sơn bảo:

 

–    Sư đệ ngộ Như Lai Thiền, mà chưa ngộ Tổ Sư Thiền.

 

Trí Nhàn ngâm bài tụng khác:

 

–    “Ta có một cơ

Chớp mắt chỉ y

Nếu người chẳng hội

Riêng gọi Sa di”.

 

Ngưỡng Sơn trở về, thưa lại Quy Sơn:

 

- Con mừng sư đệ Trí Nhàn đã ngộ Tổ Sư Thiền.

 

Từ chỗ ngộ đạo này, về sau sư dạy lại kinh nghiệm của sư cho đại chúng:

 

–        Đạo do ngộ từ nội tâm mình mà được, chứ chẳng tại ngữ ngôn. Hãy nhìn vào cái vô hình và vô biên. Ngươi có tìm thấy tình trạng gián đoạn nào ở đó không? Sao ngươi lại có thể nhọc tâm trí để đến đó? Nó chỉ là hồi quang phản chiếu và đó là toàn bộ công việc hằng ngày của ngươi. Chỉ có những kẻ mê, thì đi trái hướng.

* * *

 

6. Tống Vân: Sứ thần vua Hiếu Minh Đế (Bắc Ngụy), năm 518, từ Lạc Dương, sư cùng với hai vị sư khác là Pháp Lực và Huệ Sinh vâng mệnh vua đi truyền bá Phật pháp tại nhiều nơi ngoài nước Tàu, quen gọi là Tây Vực. Hai năm sau (năm 520), sư đến Ấn Độchiêm bái Phật tích tại Bồ Đề đạo tràng và những nơi khác. Tại Ấn Độ, sư đã thỉnh được 170 bộ kinh Đại Thừa (bằng tiếng Sanskrit). Tháng 2 năm 522 hoặc 523, sư trở lại Lạc Dương. Trên đường về, sư soạn quyển “Tống Vân Hành Ký”. Trong quyển sách này không có ghi chuyện tích Tống Vân gặp Tổ Đạt Ma tại Thông Lãnh như Cảnh Đức Truyền Đăng Lục đã ghi. Do đó, nhiều sử gia đã cho rằng chuyện tích Tống Vân gặp Tổ Đạt Ma là hư cấu.

 

7.   Khuê Phong Tông Mật (780-841): Thiền sư Trung Hoa, hiệu Định Tuệ thiền sư, Tổ thứ năm của Tông Hoa Nghiêm, sống vào đời Đường, họ Hà, quê ở Quí Châu, hiện nay là huyện Tây Sung, tỉnh Tứ Xuyên. Năm 807, trên đường đến kinh đô để dự thi, khi đến Toại Châu, nhân duyên đúng lúc, sư bỏ ý nguyện thi cử để ra làm quan mà xin xuất gia làm tăng với thiền sư Đạo Viên, sau khi sư nghe Hòa Thượng giảng pháp.

 

Về Pháp hệ, sư thuộc đời thứ bốn của dòng thiền Hà Trạch Thần Hội (668-760):

 

a. Pháp Như,

b. Duy Trung hoặc Nam Ấn,

c. Đạo Viên,

d. Tông Mật.

 

Là đệ tử đời thứ tư của ngài Thần Hội, ngài Tông Mật dùng yếu chỉ của ngài Thần Hội để đại biểu cho Thiền học thời bấy giờ (cuối đời Đường), kết hợp với Giáo lý Hoa Nghiêm, chủ trương Thiền Giáo Đồng Hành.

 

Yếu chỉ dạy thiền của ngài Thần Hội: “Một chữ biết” (Tri). Ngài giải thích: tri tức linh tri, là cái tâm rỗng lặng do Tổ Đạt Ma truyền thụ. Vì mê nên mất linh tri, nên khởi ngã tướngvọng chấp “có ta, của ta”, nhận các đối tượng khách quan bên ngoài là sở hữu của ta, nên bị vướng mắc trong thế giới đối đãi tự-tha (mình-người), thiện ác. Nếu liễu ngộ cái linh tri tịch diệt thì bi trí thêm sáng, tội ác đoạn trừ, công hạnh tự nhiên tinh tiến.

 

8. Tâm ấn: Thuật ngữ của Thiền TôngThiền Tông chủ trương: chữ viết (văn tự) và lời nói (ngôn ngữ) là hai phương tiện tuy rất hữu ích trên phương diện truyền thông, nhưng cả hai không thể giúp ta hiểu thấu được trạng thái tâm, tức pháp tự nội chứng của Phật như thế nào. Đó là trạng thái Như (Tathā). Thiền Tông dùng trạng thái Như mà Phật tự nội chứng gọi là Phật tâmẤn chỉ cho chân lý do Phật chứng ngộ, được Tổ dùng để chỉ như dấu ấn mà trong thế gian dùng; quyết định không thay đổi.

 

9.   Thất Tông: Bảy tông. Ngoài Ngũ tông đã nêu, trong đó có hai tông, vốn từ tông Lâm Tế hình thành:

 

a)      Dương Kỳ Phương Hội (996-1049). Tổ khai sáng thiền phái Dương Kỳ, một trong Ngũ Gia Thất TôngĐệ tử nối pháp của ngài Thạch Sương Sở Viên (986-1039).

 

b)     Hoàng Long Tuệ Nam (1002-1069). Tổ khai sáng thiền phái Hoàng Long. Đệ tử nối pháp cuả ngài Thạch Sương Sở Viên.

 

Pháp Thin của Tổ

 

Luận Nhị nhập Tứ Hạnh (the Treatise of Two Entrances and Four Deeds/Practices). (Tư liệu này đào lên được tại động Đôn Hoàng, hiện được tàng trữ tại bảo tàng viện Luân đôn, Anh quốc). Đây là Luận của Tổ Đạt Ma trình bày yếu chỉ tu thiền mà Tổ đã dạy đệ tử tại chùa Thiếu Lâm.

 

NHỊ NHẬP gồm hai phần vào Đạo: Lý nhập và Hành nhập. Cả hai cần kết hợp. Lý là lý luận. Hành là thực hành lời dạy của Phật trong kinh, gọi là giáo. Đạo là chân lý tối hậu. Nó ngoài lời, nhưng mượn lời để dẫn đến Đạo.

 

  1. i.       Lý NhậpTrọng tâm phần này Tổ dạy đại ý như sau:

 

Nhờ vào giáo nghĩa của kinh mà ngộ được tâm tông. Tin sâu rằng tất cả chúng sinh (all living beings) từ phàm đến thánh đều có cùng chân tánh (the same true nature), nhưng vì do khách trần phiền não ngăn che, nên không hiển lộ được. Nếu có thể bỏ vọng về chân, lắng tâm quán xét, không thấy có mình, có người, phàm thánh đồng nhất, kiên cố không dời đổi, không theo ngôn giáovăn tự; như vậy, tức thầm hợp với chân lý, không còn phân biệtvắng lặng vô vi, gọi là lý nhập.

 

Tổ dạy:

 

Nhiều đường dẫn đến Đạo, nhưng cơ bản chỉ có  (reason) và Hành (practice). Vào bằng lý có nghĩa ngộ (realize) cốt tùy của Đạo qua giáo (instruction) và tin rằng tất cả chúng sanh đều có cùng chân tánh (true nature). Nhưng chân tánh này nó chưa hiển lộ (apparent) vì nó bị che lấp (shrouded) bởi vọng tình (sensation and delusion). Người nào chuyển mê (delusion) đến thực tại, ai bích quán (meditate on walls), mất (the absence of) ngã (self) và ngã sở (other)... và ai duy trì trạng thái bất động kể cả do kinh được đầy đủ và không nói một lời với lý, tâm không động, không cố gắng, họ vào, ta nói do Lý.

 

  1. ii.     Hành Nhập. Vào do hành chỉ cho bốn cách thực hành (Tứ hành):

 

  1. Báo oan hành (the Deed of Retribution of Evil)

Nội dung phần này, Tổ dạy:  Người tu hành, khi tu, nếu gặp điều oan ứcnghịch cảnhkhổ nạn thì nên xem đó là quả báo của ác nghiệp mà mình đã tạo ra trong kiếp trước hay thời gian trước đó, nay tuy đã xuất gia tu rồi, không tạo ác nghiệp nữa mà bỗng dưng chịu nhiều điều oan ức, nên biết đó là quả báo, nên kham nhẫn chịu đựng, chớ phàn nàn, chớ kêu oan. Khi tâm kham nhẫn chịu đựng được những oan ức đó thì phù hợp với lý, hóa giải được oan nghiệt, vững tiến trên đường đạo. Đó gọi là báo oan hành.

 

  1. Tùy duyên hạnh (the Deed of Dependence upon Causation)

Chúng sinh vô ngã, sống trên đời đều do nghiệp chuyển, khổ vui cùng chịu, đều từ duyên sinh. Nếu được quả báo thù thắngvinh dự đều do nhân đời trước mang lại. Khi duyên hết thì hoàn không. Được mất tùy duyêntâm không thêm bớt, gió vui chẳng động; ngầm thuận với Đạo. Đó là tùy duyên hạnh.

 

  1. Vô sở cu hạnh (the Deed of Non-seeking)

Kinh nói: “Cầu là khổ. Cầu không có gì là vui”. Khi ngươi cầu không có gì, ngươi trên Đạo. Người đời mê đắm, luôn luôn dính mắc với tham, gọi là Cầu. Người trí hiểu lý chân thực an tâm vô vinhận ra rằng vạn pháp thực sự đều không (all things are essentially empty: śūnya). Vì vậy, khi đã phát tâm tu thì không mong cầu tất cả thú vui, danh tiếnglợi lộc thế gian. Chỉ có một lòng trên đạt được giác ngộ dưới giáo hóa chúng sinh, chứ không mong cầu gì khác nữa. Đó gọi là Vô sở cầu hạnh.

 

  1. Xứng pháp hành (the Deed of Accordance with the Dharma)

Lý tính thanh tịnh gọi là Pháp. Xứng pháp hành là thực hành đúng pháp. Pháp này là không có các tướng, không nhiễm, không dính, chủ thể và khách thể đều không hiện hữu. Kinh nói: “Pháp gồm phi hữu vì nó thoát ra khỏi bất tịnh của hữu, và pháp vô ngã vì nó thoát ra khỏi bất tịnh của ngã”. Người trí tin hiểu lý này nên thực hành đúng.

 

 

Hòa Thượng Thích Thông Triệt



[1] Về câu này, trong quyển Thiền Nguyên Chư Thuyên Tập Đô Tự, ngài Khuê Phong Tông Mật ghi là “Ngoài dứt các duyên, trong tâm không th, tâm như tường vách, mới vào được Đạo”.

 

[2] Tâm thể vô niệm = bản thể vô niệm của tâm = tâm như = nhận thức biết không lời.

 

[3] đoạn diệt = trơ trơ không biết gì.

 

[4] Sở đắc của mình = điều mà mình đã được.

 

[5] Phật A Súc = Akṣobhya Buddha = Bất động Phật, hay Vô Sân Phật; tên của vị Phật trong Tông Tịnh độ và Mật tông, gọi đủ là A Súc Bệ Phật. Tên vị Phật này được thấy ghi trong kinh A Súc Phật Quốc Kinh (Akṣobhya-tathāgatasya); hiện nay không còn lưu hành.

[6] Tri kiến Phật = trí Phật = Buddha-Jñāna = Buddha’s knowledge = Nhất thiết trí. Khi kinh Pháp Hoa đề cập tri kiến Phậtthuật ngữ này là tri kiến của Như lai (Tathāgatajñāna-darśana) = Đây là sự thấy biết của Như Lai về pháp giới tánh và pháp tánhĐại ý của kinh muốn nêu lên: Phật xuất hiện ở đời vì đại sự nhân duyên là muốn giúp cho chúng sinh khai mở tri kiến Phật; chỉ bày cho chúng sinh thấy tri kiến Phật; ngộ được tri kiến Phật, và sau cùng là giúp cho chúng sinh nhập vào tri kiến Phật.

 


 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08 Tháng Giêng 20235:46 CH(Xem: 1586)
Es gibt kein Phänomen oder Ereignis, das unabhängig und von selbst oder zufällig gebildet und entwickelt wird.
05 Tháng Giêng 20239:01 SA(Xem: 1485)
Các bạn ơi, đây cũng chỉ là một bài ghi lại chuyện sinh hoạt trong tháng 12- 2022 này, mình trở về thăm thiền viện Chân Như, ở Navasota thuộc Texas. Không thể nói là”chuyến du hóa” được vì thiền viện Chân Như là “nhà mình” mà.
27 Tháng Mười Hai 20223:39 CH(Xem: 1444)
Meditation hilft der Menschen, harmonisch mit der Umwelt zu leben. Eine Harmonie zwischen Körper und Geist eines Individuums, eine Harmonie zwischen einem Individuum und anderen Individuen und eine Harmonie zwischen einem Individuum und der Natur.
24 Tháng Mười Hai 202212:22 CH(Xem: 1431)
... Không có cái nào độc lập và tồn tại vững chắc. Chỉ vì tất cả hiện tượng đều vô ngã, tức không thực chất tính, chúng nương tựa vào nhau mà trở thành.
17 Tháng Mười Hai 20227:50 SA(Xem: 1638)
Toàn thể cơ quan tâm-vật lý này ở trong luồng thường hằng như bánh xe quay không bao giờ ngưng. Nó cứ quay mãi, và cơ quan tâm-vật lý cứ trôi lăn mãi trong vòng luân hồi.
11 Tháng Mười Hai 202210:19 SA(Xem: 1663)
Trong 12 mắt xích, Thức (viññāṇa) và Danh - Sắc (nāma-rūpa) được xem là mắt xích cơ bản. Từ hai mắt xích này, tất cả những liên quan chủ thể-khách thể trong kinh nghiệm bình thường được phát xuất, và cấu trúc năng động cũng bộc lộ sự vận hành bên trong tâm. Thông qua chúng, sự chuyển biến của chúng ta từ vô minh đến giác ngộ có khả năng thực hiện được.
06 Tháng Mười Hai 20227:49 CH(Xem: 1467)
Nội dung bài pháp ngắn này, đức Thế Tôn cho biết ở đời có bốn hạng người hiện hữu. Đó là hạng người đi thuận dòng, hạng người đi ngược dòng, hạng người tự đứng lại và hạng người khác là vị Bà-la-môn vượt qua bờ bên kia, đứng trên đất liền.
06 Tháng Mười Hai 20226:19 CH(Xem: 1443)
Không có một hiện tượng nào được hình thành và phát triển mà ở trong trạng thái độc lập hay cô lập hoặc ngẫu nhiên.
05 Tháng Mười Hai 20226:51 CH(Xem: 1426)
Das Bāhiya Sutra ist eine Lehrrede des Buddhas über die Funktionen der Naturen: die Natur des Sehens, die Natur des Hörens, die Natur des Berührens und das Nonverbale Bewusstsein.
28 Tháng Mười Một 20226:21 CH(Xem: 1497)
... Tưởng ám chỉ nhị nguyên chủ thể khách thể (subject-object duality). Vì nó là cái biết (knowledge) đạt được do sự cảm thấy đối tượng bên ngoài và bên trong thân xuất phát từ sự cung cấp sáu loại dữ kiện của Thọ. Sự cảm thấy này tạo thành một biểu tượng trong tâm gọi là tri giác biểu tượng...
24 Tháng Mười Một 20225:13 CH(Xem: 1342)
Sống ở đời, không ai là không có bạn. Nếu không khéo, mình kết thân với những người bạn xấu, bạn ác thì cuộc đời của mình ngày càng đi vào ngỏ hẹp. Về vấn đề này, đức Phật cũng có những lời khuyên dạy cho đệ tử xuất gia và tại gia của Ngài.
20 Tháng Mười Một 20227:22 SA(Xem: 1460)
Trở lại bờ này Về lại nhà xưa, Chợt thấy, ngôi nhà xưa Là chính bờ bên này.
19 Tháng Mười Một 20222:48 CH(Xem: 1690)
Der Hauptgrund dieses Leidens ist, dass wir eine falsche Sicht über das Leben, über die weltlichen Phänomene und vor allem über uns selbst haben.
18 Tháng Mười Một 20225:43 CH(Xem: 1520)
Đi trên con đường Thiền, ta cần nắm vững toàn bộ các mặt trong mỗi tiến trình của Tứ Đế để dễ nhận ra phương thức thực hành tiến đến chữa dứt khỏi Khổ cho chính mình.
16 Tháng Mười Một 20227:50 SA(Xem: 2258)
Chánh niệm tỉnh giác giúp tâm dừng lại để sống trọn vẹn với cái đang là. Khi tỉnh giác, năng lượng Phật được biểu hiện, khi thất niệm năng lượng chúng sanh có mặt.
15 Tháng Mười Một 20225:46 CH(Xem: 1374)
Trí Bát Nhã siêu thế có thể thấy một cách đúng đắn như thật (yathābhūtam pasyati) thì gọi là chứng. Còn trí không phân biệt thì có thể thông đạt (Skt: samvidate: know thoroughly), cho nên gọi là được (Kinh Bát Nhã 567).
07 Tháng Mười Một 20229:20 CH(Xem: 1509)
Tỳ-khưu-ni lỗi lạc, vang danh bậc nhất về Đại Trí Tuệ trong Ni giới. Đó là nữ tôn giả Khema. Đặc biệt là Khema đã chứng quả Thánh cao thượng, chỉ sau một thời pháp của đức Phật, ngay khi bà còn là một hoàng phi cao sang quyền quý, chưa hề xuất gia, chưa hề quy y Tam Bảo, chưa phải là đệ tử của đức Phật Gotama.
07 Tháng Mười Một 20227:29 SA(Xem: 1513)
Điểm then chốt của bài pháp ngắn gọn này là nhấn mạnh đến nguyên tắc kinh nghiệm giác quan. Đó là khi giác quan kinh nghiệm được điều gì hãy để nó kinh nghiệm mà không để tự ngã can thiệp vào. Nếu biết khai thác nguyên lý này, ta cũng sẽ có kinh nghiệm ngộ đạo
01 Tháng Mười Một 20228:22 CH(Xem: 2312)
Thực tại cùng tột là chân lý tuyệt đối, chỉ bằng nhận thức khách quan mới có thể nhận biết được bản chất của thực tại. ...
01 Tháng Mười Một 202210:45 SA(Xem: 2736)
Kinh Bāhiya là bài kinh Phật dạy liên hệ đến những chức năng bên trong cơ chế tánh giác gồm tánh thấy, tánh nghe, tánh xúc chạm và nhận thức không lời.
31 Tháng Mười 202211:01 SA(Xem: 1604)
Das Leiden entsteht durch das Ursache und Wirkungsprinzip. Aus welcher Ursache entsteht das Leiden? Aus Ursache der Berührung.
24 Tháng Mười 20223:06 CH(Xem: 1981)
Phật giải thích: “Khổ do duyên mà sanh. Do duyên gì? Do duyên xúc ... Không cần đến xúc, sự kiện như vậy không xảy ra”.
23 Tháng Mười 20224:01 CH(Xem: 1465)
... con thuyền để chuyên chở mình đi trên giòng sông tâm linh là Tánh nguyên tắc. Mình phải cương quyết, với ý chí dũng mãnh giữ gìn những nguyên tắc sống thích hợp với những chân lý mà Đức Phật dạy. Đó là Tánh nguyên tắc trong thiền.
17 Tháng Mười 202212:03 CH(Xem: 1623)
Thiền dạy ta thấy, chứ không dạy ta suy nghĩ. Vì thế, suy nghĩ luôn luôn đối nghịch với Thiền. Thiền là sản phẩm của thấy. Suy nghĩ là sản phẩm của tưởng tượng.
10 Tháng Mười 20222:16 CH(Xem: 1888)
... ý thức là cái biết có tính phúc trình hay biết công bố (declarative knowledge), còn tánh giác là cái biết có tính trầm lặng (reticentability) ...
02 Tháng Mười 20226:59 CH(Xem: 1820)
Lý do chủ yếu của những nỗi thống khổ đó là do ta có cái nhìn lầm lạc (a perverted vision) về cuộc đời, về thế gian và hiện tượng thế gian; đặc biệt nhất là ta lầm lạc đối với chính ta.
01 Tháng Mười 20224:42 CH(Xem: 1651)
Der Buddha sagte, dass die Menschen so viel Tränen vergossen haben, so dass sie einen riesigen Ozean bilden könnten. Das Gelächter von zwei Geschwistern könnten aber nur zwei Regentonnen voll ausfüllen.
28 Tháng Chín 20229:36 SA(Xem: 3655)
Ai có Tâm vì người ? - Người Vô Ngã ! Thế nào là người Vô Ngã? - Sống với các Tánh ! Tại sao sống với các Tánh mới có Tâm vì người ? Vì người Có Ngã Tâm lúc nào cũng vì Ngã Không thể vì người được !
17 Tháng Chín 20227:29 SA(Xem: 2126)
Zusammenfassend lässt sich sagen, dass alle weisen Mönche voller Tugend, übernatürliche Kräfte und Weisheit besitzen. Jeder Ehrwürdige hat eine Sonderfähigkeit, obwohl sie unterschiedlich sind aber sie sammelt sich wie ein Blumengarten mit Hunderten von verschiedenen Blumen und jede Blume gibt ihren eigenen Duft ab und zeigt ihre prächtige Farbe.
17 Tháng Chín 20227:14 SA(Xem: 1641)
Thân là phần thể xác, có hình vóc, nên người ta có thể trông thấy và va chạm. Còn tâm là phần tinh thần, tinh thần thì siêu hình không ai có thể nhìn thấy hay sờ mó được. Tuy siêu hình nhưng tâm chính là cái biết, là ý thức, là chủ thể ra lệnh cho thân làm việc theo ý muốn của nó. Tâm cũng có nhu cầu chăm sóc tắm rửa làm vệ sinh như thân thể vậy!
13 Tháng Chín 202210:43 SA(Xem: 1480)
Từ ta cánh nhạn bên trời, Bay qua nhập cuộc sống đời hư hao. Chiều theo cơn gió qua mau, Trăng đêm thấp thoáng lao xao chạnh lòng
12 Tháng Chín 20226:11 CH(Xem: 2004)
Thiền giúp cho cuộc sống con người được hài hòa cùng với môi trường chung quanh. Đó là những sự hài hòa giữa thân và tâm của cá nhân, hài hòa giữa cá nhân này với cá nhân kia, và hài hòa giữa cơ thể của cá nhân với thời tiết trong thiên nhiên.
12 Tháng Chín 20226:00 CH(Xem: 1645)
"Đó là không bị nhiễm bởi bất cứ ý nghĩ gì của ngã. Bố thí của cải không đủ, chừng nào mà ý nghĩ nhỏ nhất của ngã còn lại trong việc bố thí, nó sẽ hủy hoại hết việc thiện của ông. Những ý nghĩ của ngã che lấp ngay cả mục tiêu cao thượng, như tro che dấu lửa, nếu dẫm chân lên đó, bàn chân sẽ bị bỏng."
05 Tháng Chín 202210:06 CH(Xem: 1736)
Thấm thoát gần đến ngày tưởng niệm giỗ đầu của Thầy Thích Không Chiếu ... Khi bắt đầu sấp xếp giấy tờ riêng của Thây, em có thấy 1 bài thơ Thầy ghi trên giấy rời: `` Hải Đảo Tự Thân `` Xem đi, xem lại nhớ Thầy vô cùng. Và em cũng xin gởi đến chị dù không biêt lúc xưa chị đã được xem chưa ... Thu Bình và các em ..
03 Tháng Chín 202210:40 SA(Xem: 1969)
Einmal fragte mich jemand: Meisterin, können Sie die Struktur des Kultivierungsweges vereinfachen, damit wir ihm leichter folgen können, bevor Sie in die Ruhe gehen? Es gibt ja keinen realen Weg. Kultivierung heißt nur, den eigenen Geist zu beobachten und der Geist sind wir selbst. Wenn wir nach einem Weg suchen, heißt es, dass wir verirrt sind, da wir draußen suchen, was in uns drin ist.
02 Tháng Chín 202210:43 SA(Xem: 1799)
“Về các pháp phát sanh do nguyên nhân, nguyên nhân ấy, Như Lai đã chỉ rõ, Và cũng chỉ dạy cách chấm dứt, đó là giáo huấn của vị Đại Sa Môn”
29 Tháng Tám 202211:03 SA(Xem: 2176)
My young friends once told me heartfeltly: “Lady Master, before your retirement, please standardize the method from its beginning to its end so we can easily follow it.” To be frank, there is not a distinct road. The spiritual cultivation is just how to see your mind. We ourselves are in our own mind. Is there any other way? Launching our mind beyond our physical body to look for something outside is to get lost.
27 Tháng Tám 20222:08 CH(Xem: 1554)
84.000 Dharma-Türen bedeuten auch keine Dharma-Türe. Wieso? Egal wo wir sind, wir können das Haus betreten, wann und wo wir wollen, da es unser eigenes Haus ist. Wir befinden uns bereits in diesem Haus. Nur haben wir es nicht wahrgenommen, weshalb haben wir es überall gesucht. Wenn wir aber ein einfaches und natürliches Leben führen würden, würden wir schon in unserem eigenen Haus wohnen.
24 Tháng Tám 20228:04 SA(Xem: 2733)
VIDEO Ni sư Triệt Như hướng dẫn KHÓA TU ĐẶC BIỆT Tổng kết ngày 13 tháng 8 năm 2022 tại HỘI THIỀN TÁNH KHÔNG ONTARIO CANADA
24 Tháng Tám 20227:55 SA(Xem: 1746)
Ngay lúc đó, đức Phật công bố rằng ông đã nhận được pháp nhãn (the eye of Dhamma). Phật buột miệng tán thán ngài Kiều Trần Như. Phật nói: “Kiều Trần Như, ông đã ngộ”. “Kiều Trần Như, ông đã ngộ”. (“aññāsi vata bho Kondañño,” “aññāsi vata bho Kondañño.”)
20 Tháng Tám 20221:28 CH(Xem: 1703)
„Was kommen wird, muss sterben“. Wahrscheinlich haben wir diese Wahrheit nicht akzeptieren wollen. Wir werden dann traurig oder ängstlich sein, wenn wir krank sind. Liebe Freunde, ist die Krankheit doch nicht eine Illusion der Sprache?
15 Tháng Tám 20226:56 SA(Xem: 2759)
Ni sư Thích nữ Triệt Như hướng dẩn KHÓA TU ĐẶC BIỆT - Phần 1 tại HỘI THIỀN TÁNH KHÔNG ONTARIO CANADA Ni Sư Triệt Như giới thiệu nội dung và mục đích của khóa tu. Bài tập về thiền hành với chủ đề: Biết sự xúc chạm khi đi - Cái biết đặt dưới bàn chân
13 Tháng Tám 20224:40 CH(Xem: 1947)
Theo quan niệm nhà Phật thì con người tự ràng buộc mình trong nỗi khổ đau do chính mình gây ra. Muốn thoát khổ thì cũng phải chính mình tháo gỡ sợi dây ràng buộc đó chứ không Thần Phật nào cứu rỗi, ban ơn, giáng họa cho mình được.
10 Tháng Tám 20227:09 SA(Xem: 2510)
Sự thật muôn đời: hễ cái gì có sinh ra, thì phải có lúc chấm dứt, biến mất, hoại diệt. Nhưng dường như chúng ta chưa chấp nhận sự thật này. Nên chúng ta buồn khổ vì bệnh. Các bạn ơi, như vậy bệnh có phải chỉ là ảo giác ngôn ngữ?
69,256