BÀI ĐỌC THÊM
https://www.tanhkhong.org/p105a3254/ht-thich-thong-triet-so-luoc-tieu-su-to-bo-de-dat-ma
Bồ Đề Đạt Ma – Bodhidharma (k. 440? - 528?)
Tuy gốc người Nam Ấn, nhưng tại Ấn không ai nhớ đến tên Ngài; trái lại, ở Trung Hoa, Nhật Bản, Triều Tiên, và Việt Nam, từ hơn 1000 năm qua cho đến nay, Ngài đã là khuôn mặt vĩ đại đối với nền thiền học và văn hóa Phật giáo tại các nước này.
Truyền thống Thiền Tông
Lịch sử Thiền Tông Trung Hoa được mở đầu bằng vị Tổ thứ Hai Mươi Tám của Ấn độ là Bồ Đề Đạt Ma. Theo truyền thống tổ truyền Y-Bát của Phật trong lịch sử Thiền Tông Trung Hoa, gồm sáu vị:
Tổ đã mở màn một kỷ nguyên mới về Thiền bằng bốn câu kệ bất hủ:
Chính bốn câu kệ này đã làm khởi sắc và hưng thịnh dòng Thiền Trung Hoa. Mãi thế kỷ thứ IX, ngài Khuê Phong Tông Mật* (780-841) xếp thiền do Tổ khai sáng là Tối Thượng Thừa Thiền*. Để rồi sau đó chư Thiền Đức Trung Hoa bắt đầu khai triển thông điệp đặc sắc nói trên để dụng công. Thực sự, thông điệp nói trên đã đặc biệt cho thấy nguyên tắc cơ bản của Thiền Tông là muốn đi đến nơi tối hậu của con đường đưa đến thoát khổ, giác ngộ, và giải thoát, tức thành Phật. Người thực hành thiền phải kiến tánh* như đức Phật Thích Ca ngày xưa đã kiến tánh vậy (xem thêm Tiến Trình Tu Chứng của Đức Phật). Từ sau đó, kiến tánh đã trở thành chủ đề nồng cốt trong lịch sử phát triển Tổ Sư Thiền* của Thiền Tông Trung Hoa.
Từng thế hệ đi qua – gần 15 thế kỷ – âm ba của Tổ vẫn còn vang dội trong nhiệt tâm của người tu thiền muốn tìm cầu thoát khổ, giác ngộ, và giải thoát tích cực với bốn câu kệ nói trên.
Vì phương pháp tu thẳng của Tổ, nên lịch sử của Tổ mang rất nhiều huyền thoại. Tác dụng huyền thoại đó đã làm nổi bật con người đặc biệt của Tổ mà không nhà sử học nào gọi Tổ là A La Hán hay Bồ Tát như truyền thống Phật giáo trước thời Tổ thuộc hai hệ Nguyên Thủy và Phát Triển. Tên tuổi của Tổ cho đến nay vẫn còn được giới thiền học Đông phương cũng như Tây phương và giới võ lâm thế giới đều nhắc đến vị Tổ khai sáng môn phái Thiếu Lâm với niềm tôn kính sâu xa. Bốn câu kệ nói trên, tuy trong hai sử liệu Cao Tăng Truyện (hoàn thành năm 645) và Truyền Đăng Lục (hoàn thành năm 1002) không thấy ghi; trái lại, bốn câu kệ đó được thấy ghi trong “Pháp Chánh Truyền của Phật Thích Ca” do sử gia Tsung-Chien ghi lại vào năm 1257, gán cho Nam Tuyền Phổ Nguyện (748-834) là tác giả. (tr. 176, Thiền Luận quyển Thượng của Suzuki, bản tiếng Anh). Đúng hay sai, cho tới nay không có sử liệu nào chứng minh, nhưng cho đến đây – theo truyền thuyết sử Tổ Sư Thiền – tất cả người tu Thiền phương Đông cũng như phương Tây đều thừa nhận bốn câu kệ nói trên là thông điệp của Tổ Bồ Đề Dạt Ma truyền cho hậu thế phương hướng thực hành đạo thiền của Phật Thích Ca bằng những lối đơn giản nhất, thiết thực nhất, nhưng vô cùng khó khăn nhất. Đó là cách chỉ thẳng tâm người để “kiến tánh”. Vậy tâm đó là tâm gì? Tánh đó là tánh gì? Làm thế nào để kiến? Nếu không được giải thích rõ ràng, thông điệp nói trên sẽ là chủ đề thuộc phạm vi công án như những công án trong Bích Nham Lục đã được thiền sư Viên Ngộ (1063-1135) biên soạn và hoàn thành từ thế kỷ 12 (năm 1125) trước đây…
Sơ lược tiểu sử
Về năm sinh và năm tịch của Tổ Bồ Đề Đạt Ma, có nhiều truyền thuyết khác nhau: có sách ghi ngài sinh vào năm 470, tịch năm 543; sách khác lại ghi sinh năm 440, đến nam Trung Hoa năm 475, vào lúc nước Tàu chia ra làm hai miền Nam Bắc, gọi là Nam Triều, Bắc Triều. Tuy nhiên, có hai nguồn tài liệu ghi lại về hành trạng của Tổ Bồ Đề Đạt Ma là Truyền Đăng Lục của thiền sư Đạo Nguyên soạn vào năm 1004, trong đó ghi rằng Bồ Đề Đạt Ma đến đất Lương vào năm 520, cuối cùng tịch vào năm 528 vào ngày mùng 5 tháng 10, vì bị đánh thuốc độc. Trong lúc đó, theo Cao Tăng Truyện, do ngài Đạo Tuyên soạn, được hoàn thành vào năm 645 thì Tổ Bồ Đề Đạt Ma thọ trên 150 tuổi, tịch ở Lô Giang, và không ghi ngày tháng cùng nguyên nhân tịch. Còn theo ngài Đạo Nguyên ghi trong Truyền Đăng Lục, sau khi truyền Y Bát cho Tổ Huệ Khả, Bồ Đề Đạt Ma tịch vào ngày mùng 9 tháng 10 vì bị đánh thuốc độc, được mai táng tại Chùa Tinglin trên núi Tai Gấu (Hùng Nhĩ sơn) ở huyện Lư Thị, tỉnh Hà Nam. Ba năm sau, Tống Vân* (Sung Yun) thỉnh kinh từ Ấn Độ trở về, gặp sư tại rặng núi Thông Lãnh (Turkestan, núi này ở Trung Á), chỉ quảy trên vai một gậy và treo một chiếc dép trên đó, nói rằng sư trở về Ấn Độ, và còn thông báo cho Tống Vân biết là “Chúa của ông đã chán đời rồi”. Khi Tống Vân về triều thì quả nhiên vua Hiếu Minh Đế (Đông Ngụy) đã băng hà. Vua Hiếu Trung lên nối ngôi. Tống Vân đem việc ấy tâu lại, Vua ra lệnh mở cửa tháp… Dở quan tài ra, quả nhiên trong quan tài chỉ còn lại một chiếc dép. Vua ra lệnh đưa dép về chùa Thiếu Lâm. Đến đời Đường, năm 728, môn đồ lại dời chiếc dép về chùa Hoa Nghiêm.
Sinh quán của ngài ở Kanchi (Hương Chí), kinh đô miền nam Ấn, vương quốc Pallava. Ngài gốc Bà La Môn và là con thứ ba của vua Simhavarman. Khi còn trẻ, ngài tên là Bồ Đề Đa La (Bodhitāra/Bodhidhana), sau theo học Phật pháp với Tổ thứ 27 là Bát Nhã Đa La (Prajñatāra) (?-457) do chính phụ vương của ngài mời từ trung tâm Phật giáo nước Ma Kiệt Đà (Magadha). Sau khi vua cha băng hà, ngài quyết chí xuất gia, cầu xin Tổ Bát Nhã Đa La (Prajñatāra) nhận làm đệ tử. Tổ hoan hỷ nhận và làm lễ thế phát và truyền giới cụ túc. Tổ đặt pháp danh lại là Bồ Đề Đạt Ma.
Sau đó sư được Tổ Bát Nhã Đa La thừa nhận là rất đúng và trao truyền Y Bát của Phật cho sư. Sư chính thức được Tổ Bát Nhã Đa La công nhận là người kế vị.
Tổ dặn: Ngươi tạm giáo hóa ở nước này, sau sang Trung Hoa mới thật là nhơn duyên lớn. Song đợi ta diệt độ khoảng 60 năm sau sẽ đi. Nếu ngươi đi sớm, sau e có việc không tốt.
Tổ tịch rồi, ngài vẫn ở lại nước nhà giáo hóa. Người đồng sư với ngài là Phật Đại Tiên (Buddhamahàrishi) cùng chung sức giáo hóa. Người đương thời gọi hai ngài là “Hai Đệ Tử Cam Lồ” (the Two Nectar Disciples) của Tổ Bát Nhã Đa La có khả năng “Mở cửa cam lồ” (Mở cửa bất diệt) (Cam lồ: Skt: Amrta: bất diệt).
Đến Trung Hoa
Về sau, ngài được vua Dị Kiến thỉnh vào cung giáo hóa. Thấy đã đến lúc cần phải sang Trung Hoa, ngài đem lời huyền ký của Tổ Bát Nhã Đa La thuật lại với nhà vua rằng ngài cần phải sang Trung Hoa để truyền bá Phật pháp. Thấy không thể giữ ngài lại được, nhà vua đồng ý.
Vào thời đó, đường bộ bị rợ Hung Nô ngăn chận và vì nước Pallava giao lưu thương mãi với các nước Đông Nam Á nên ngài đi bằng thuyền buôn từ cảng Mahaballipu-ram. Phải mất ba năm sau ngài mới đến miền nam Trung Hoa vào năm 520.
Lúc bấy giờ nước Tàu chia ra hai vùng rộng lớn đối lập nhau, gọi là Nam Triều và Bắc Triều. Nước Lương thuộc Nam Triều. Lương Vũ Đế (464-549) là vị vua thâm tín Phật giáo. Trong 48 năm trị vì, nhà vua đã áp dụng giáo lý nhà Phật để chăn dân với hạnh bồ tát.
Trước khi gặp Tổ Bồ Đề Đạt Ma, nhà vua đã mời ba đại pháp sư là ngài Pháp Vân, Trí Tạng, và Tăng Mân đến giảng Phật lý. Ngoài ra, nhà vua cũng mời các vị cao tăng khác phụ trách dịch kinh, như các ngài Tăng Già Ba La (Sanghapāla), Mạn Đa La Tiên (Mandrarisi). Năm 504, nhà vua đã cử hành lễ “Xả Đạo Phụng Phật”, tức là bỏ đạo Nho, đạo Lão để phụng sự đạo Phật. Liên tiếp trong nhiều năm, nhà vua đã tỏ ra tích cực phụng sự Phật pháp trên nhiều mặt, nhất là việc làm phúc thiện, và tự mình thực hành giữ giới. Năm 511, chính thức từ bỏ rượu thịt. Năm 517, ra sắc lệnh cấm dân chúng cúng tế bằng rượu thịt, chỉ bằng các thứ hoa quả. Đặc biệt, nhà vua ra lệnh dẹp bỏ các đạo quan (chùa miếu) của đạo Lão và các đạo sĩ hoàn tục. Năm 519, thọ Bồ Tát Giới tại chùa Thảo Đường với ngài Tuệ Ước. Ngoài ra, nhà vua cũng cho dựng lên nhiều chùa khắp nơi và mở nhiều Pháp hội, như “Vô Giá Đại Hội”, “Bình Đẳng Pháp Hội”, “Cứu Khổ trai Đàn”, “Đại Pháp Hội”.
Khi Bodhidharma đến Trung Hoa vào thế kỷ thứ 6, nước Tàu có khoảng 2000 ngôi chùa Phật giáo và 36000 tăng lữ ở miền nam. Còn miền bắc có khoảng 36000 ngôi chùa và khoảng 80000 tăng lữ.
Gặp Lương Vũ Đế
Khi đến huyện Phiên Ngung, tỉnh Quảng Châu, vua Lương Vũ Đế (Liang Wu Ti) đón sư về Kim Lăng (kinh đô nhà Lương) (có sách ghi Kiến Nghiệp, Nam Kinh). Theo Truyền Đăng Lục do ngài Đạo Nguyên soạn vào năm 1004, ghi lại cuộc tiếp kiến như sau:
Lương Vũ Đế hỏi:
– Từ ngày lên ngôi vua đến nay, trẫm cất chùa, chép kinh, độ tăng không biết sao kể xiết, như vậy có công đức gì không?
Sư đáp:
– Chẳng có công đức gì cả.
Hoàng đế hỏi:
– Vì sao không công đức?
Sư đáp:
– Tất cả những việc đó chỉ là nhân hữu lậu, chỉ đem đến quả nhỏ trong cõi trời, cõi người, như bóng theo hình. Tuy có, nhưng không thực.
Đế hỏi:
– Thế thì công đức nào là công đức chân thực?
Sư đáp:
– Biết phải thanh tịnh, diệu và tròn đầy. Thể của nó là không (śūnyatā: emptiness). Ta không thể đạt được công đức như thế bằng phương tiện thế gian.
Đế hỏi:
– Ý nghĩa cao nhất của thánh đế là gì?
Sư đáp:
– Rỗng không, chẳng có gì là thánh!
Đế hỏi:
– Trước mặt trẫm là ai?
Sư đáp:
– Không biết!
Vì thiên trọng về hình tướng và phước hữu lậu, chưa có dịp tìm hiểu và học hỏi tư tưởng Không trong học thuyết Bát Nhã, nên sau khi nghe Bồ Đề Đạt Ma nói về Không, bằng cách phủ nhận giá trị công đức lập chùa, dịch kinh, chép kinh, bố thí, trì giới của mình, Lương Võ Đế hoàn toàn không hiểu biết về ý nghĩa Không. Đến khi Bồ Đề Đạt Ma đi rồi, sau này Lương Võ Đế mới nhận ra được nghĩa lý thâm sâu về Không Công Đức, Không Thánh Đế, nhà vua bắt đầu nghiên cứu hệ thống kinh Bát Nhã. Cuối cùng, nhà vua thông suốt tinh thần Bát Nhã, chú giải được 50 quyển trong bộ Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Tư Chú kinh. Năm 533, nhà vua giảng kinh Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật tại chùa Đồng Thái.
Diện bích
Thấy Lương Vũ Đế chưa đủ khả năng lãnh hội tư tưởng Không trong học thuyết Bát Nhã, Sư đành cáo từ, vượt Trường Giang sang nước Ngụy, và dừng lại ở Thiếu Lâm Tự (Shao-Lin-Ssu) núi Tung Sơn (tỉnh Hà Nam). Trong chín năm, Sư thường tọa thiền xoay mặt vào vách (diện bích), người đương thời không hiểu phương cách tọa thiền của Sư, nên gọi sư là “Bích Quán Bà La môn” (the “Wall-Gazing Brāman”).
Đệ tử
Lúc bấy giờ có ông tăng tên là Thần Quang (Shen-Kuang, 487-593) nghe danh Tổ, đến xin cầu Tổ dạy đạo, nhưng Tổ không nhìn tới. Thần Quang không nản chí, nghĩ rằng: “Người xưa cầu đạo chẳng tiếc thân mạng, nay ta chưa được một trong muôn phần của các ngài”. Một hôm, nhằm tiết mùa đông, ban đêm tuyết rơi nhiều, Thần Quang vẫn đứng dầm mình trong tuyết, chắp tay hướng về Tổ, hy vọng được Tổ chú ý. Đến sáng, tuyết lên khỏi đầu gối. Quả nhiên, Tổ quay đầu hỏi:
– Ông muốn cầu gì?
Thần Quang đáp:
– Ngưỡng mong Hòa Thượng từ bi mở cửa cam lồ, rộng độ chúng con.
Tổ nói:
– Diệu đạo vô thượng của chư Phật dù trải qua nhiều kiếp cố gắng, hay làm được việc khó làm, hay nhịn được việc khó nhịn, còn không thể đến thay! Huống là dùng chút công lao nhỏ này mà cầu được pháp chân thừa sao?
Thần Quang nghe quở, bèn lấy đao chặt cánh tay trái đưa lên trước mặt Tổ để tỏ lòng thiết tha cầu đạo.
Tổ biết đây là bậc pháp khí (người có ý chí mạnh mẽ, có khả năng tu đến thành công), bèn nói:
– Chư Phật lúc ban đầu cầu đạo, vì pháp quên thân. Nay ông chặt cánh tay để trước tôi, tâm cầu đạo như vậy cũng khá.
Thần Quang hỏi:
– Pháp ấn (pháp chân thực, không thay đổi, có chuẩn mực) của chư Phật con có thể được nghe chăng?
Sư nói:
– Pháp ấn của chư Phật không phải từ người khác mà được.
Thần Quang thưa:
– Nhưng tâm con không an, xin thầy dạy pháp an tâm.
Sư bảo:
– Đưa tâm đây, ta an cho.
Thần Quang thưa:
– Con tìm tâm không được.
Sư nói:
– Thế là ta đã an tâm cho ông rồi đó.
Thần Quang nhân câu nói này của Tổ liền nhận ra (ngộ) ý nghĩa. Tổ liền đổi tên lại là Huệ Khả.
- Theo Truyền Đăng Lục ghi: Tổ Bồ Đề Đạt Ma có hai đệ tử tuy nhỏ mà tuấn tú (particularly brilliant) là Đạo Dục (Tao-yu) và Huệ Khả (Hui-k’o). Tổ đã dạy hai vị này bốn pháp đặc biệt:
Về An Tâm, Tổ dạy Bích quán. Ngưng lặng nhìn vách, không mình, không người, phàm thánh như một. Đó là an tâm.
Về Phát Hạnh, Tổ dạy Tứ hành.
Về Thuận Vật, Tổ dạy Phòng ngừa sự chê bai, gièm siểm.
Về Phương Tiện, Tổ dạy Đừng chấp trước.
- Ngoài ra trong đoạn khác, Truyền Đăng Lục ghi thêm mẫu chuyên dạy đạo của Tổ với ngài Huệ Khả như sau:
Sư lúc đầu ở Thiếu Lâm Tự chín năm, vì Nhị Tổ nói pháp, chỉ dạy rằng:
Huệ Khả trình bày đủ mọi cách về tánh lý của tâm, nhưng lần nào sư cũng đáp “chẳng phải”, nhưng không nói gì về tâm thể vô niệm[2].
Một hôm, Huệ Khả đến gặp Tổ, nói:
– Con đã dứt hết các duyên bên ngoài rồi.
Tổ hỏi:
– Có đoạn diệt[3] không?
Khả đáp:
– Chẳng thành đoạn diệt.
Tổ hỏi:
– Lấy gì để tin chẳng phải là đoạn diệt?
Khả đáp:
– Con thường biết rõ ràng, còn nói thì không thể được.
Tổ đáp:
– Đó là chỗ bí quyết tâm truyền của chư Phật, ngươi chớ hồ nghi”.
Người kế thừa
Ni Tổng Trì: họ Tiêu, tên Minh Luyện, vốn là công chúa, con gái vua Lương Vũ Đế. Ni sư theo học với Tổ Đạt Ma cùng với Đạo Phó, Đạo Dục, và Huệ Khả.
Theo Cảnh Đức Truyền Đăng Lục, sau khi ở chùa Thiếu Lâm gần chín năm, thấy cơ duyên đã đến gần, Tổ gọi môn nhân đến bảo:
– Ngày ta trở về sắp đến, các người thử trình lên chỗ sở đắc[4] của mình.
…
Một hôm, Tổ gọi Huệ Khả đến bảo:
– Xưa Như Lai đem Đại Pháp Nhãn tạng trao cho Tổ Ca Diếp*, lần lượt truyền đến ta. Nay ta đem trao lại cho ngươi, ngươi phải truyền trao không để dứt mất. Cùng trao cho ngươi y tăng già lê và bát báu để làm pháp tín. Mỗi thứ tiêu biểu cho một việc, ngươi nên biết.
Huệ Khả thưa: Xin thầy từ bi chỉ dạy mọi việc.
Tổ dạy: Trong truyền tâm ấn để khế hợp chỗ tâm chứng, ngoài trao ca sa để định tông chỉ. Đời sau có nhiều người cạnh tranh nghi ngờ, họ sẽ nói: “Ta là người Ấn, ngươi là người Hoa, căn cứ vào đâu mà được pháp, lấy gì để minh chứng?” Ngươi gìn giữ pháp y này, nếu gặp tai nạn, ngươi đem ra làm biểu tín thì sự giáo hóa không bị trở ngại. Hai trăm năm sau khi ta diệt độ, y bát này dừng lại, không truyền vì lúc đó Phật pháp rất thạnh hành. Chính khi ấy người biết đạo thật nhiều, người hành đạo quá ít, người nói lý thì nhiều, người ngộ lý thì ít. Tuy nhiên, người thẩm thông lặng chứng có hơn ngàn vạn. Ngươi gắng xiển dương, chớ khinh người chưa ngộ. Nghe ta nói kệ:
Tổ lại bảo: Ta có bộ kinh Lăng Già bốn quyển là Phật nói tột pháp yếu, cũng giúp cho chúng sanh mở, bày, ngộ, nhập kho tri kiến Phật[6]. Nay ta trao luôn cho ngươi. Ta từ Nam Ấn sang đây đã năm phen bị thuốc độc mà không chết, vì thấy xứ này tuy có khí Đại Thừa mà chưa ứng hợp nên ta lặng lẽ ngồi lâu chờ đợi. Nay đã truyền trao xong, đã có thủy, ắt phải có chung vậy.
Sau đó, Ngài cùng đồ chúng đi đến Võ Môn ở chùa Thiên Thanh. Ngài lưu lại đây ba hôm, rồi ngồi an nhiên thị tịch, vào ngày mùng 9 tháng 10 năm Bính Thìn (năm 529). Hơn hai tháng sau, đến ngày 18 tháng chạp chùa cử hành lễ đưa nhục thân của ngài nhập tháp tại chùa Định Lâm, núi Hùng Nhĩ.
Đời Đường Đại Tông, sư được ban thụy là Viên Giác Đại Sư. Sư được Thiền Tông Trung Quốc xem là Sơ Tổ Thiền Tông, tức Tổ thứ nhất của Thiền Tông Trung quốc.
(Tổng hợp các sách: The Zen Teaching of Bodhidharma, bản dịch của Red Pine, tr. ix-xiii; Sử 33 Vị Tổ Thiền Tông Ấn Hoa, của thiền Sư Thanh Từ, tr. 160-170; Lịch sử Phật giáo Trung Quốc, của soạn giả H.T. Thích Thanh Kiểm; Essay in Zen Buddhism của Suzuki, tập I, tr. 20, 37, 86, 95, 107, 108, 169, 232, 365; Zen Training của Katsuki Sekida, tr. 36-37; Chan Insights and Oversights, tr. 129-135, của Bernard Faure; Zen Buddhism: A History, tr. 85-98).
GIẢI THÍCH THUẬT NGỮ
1. Bất lập văn tự: Không dùng lời văn chữ viết. Đây là sự mô tả của Tổ Đạt Ma, nội dung nói lên phương tiện dụng công đến nơi cuối cùng là “ngoài lời” hay “không lời”. Điều này phù hợp với sự mô tả của đức Phật Thích Ca là sự thành đạo của đức Phật dựa trên “atakkāvacara”. Thiền tông mô tả nội dung đưa đến giác ngộ không có chữ nghĩa lời nói nào có thể dùng để chỉ dạy được; trái lại, phải từ nơi tâm tĩnh lặng của thầy truyền thẳng đến tâm tĩnh lặng của trò. Cho nên mở đầu thông điệp đặc sắc trên, Thiền Tông mới đưa ra mẫu “Bất lập văn tự” (the non-use of writing).
Sau này, trong Ngũ Đăng Hội Nguyên và Vô Môn Quan có ghi chép việc đức Phật truyền pháp môn tối hậu, không dựa vào văn tự, truyền riêng ngoài giáo cho ngài Đại Ca Diếp. Đó là chuyện tích “Niêm hoa vi tiếu trên hội Linh Sơn”. Nội dung ghi lại chuyện xảy ra trên núi Linh Thứu, đức Phật thăng tòa, đưa cành hoa lên trước đại chúng, rồi im lặng. Mọi người đều ngơ ngác, không hiểu ý Phật muốn nói điều gì. Cùng ngay khi đó, Tôn Giả Ca Diếp nhìn hoa, rồi mỉm cười. Đức Phật liền tuyên bố trước đại chúng: “Ta có chánh pháp nhãn tạng, Niết Bàn diệu tâm, thực tướng vô tướng, vi diệu pháp môn, không lập văn tự, nay phó chúc cho Đại Ca Diếp”. Chuyện này được ghi lại trong tác phẩm Liên Đăng Hội Yếu, do ngài Hội Ông Ngô Minh, một nhà Phật học thâm sâu, biên soạn vào năm 1220, hoặc 1227, tại Trung Hoa. Từ sau đó, tích Niêm Hoa Vi Tiếu được truyền sâu rộng trong giới tu thiền Á châu, gồm các nước Trung Hoa, Nhật Bản, Triều Tiên, Việt Nam.
Bộ sách Liên Đăng Hội Yếu gồm 30 quyển, nội dung ghi lại về sử của bảy vị cổ Phật, sử của Ngũ Gia Thiền tông, gồm năm tông phái Thiền – vốn là do pháp hệ Thiền từ Lục Tổ Huệ Năng truyền xuống – hoạt động sâu rộng tại các tỉnh thuộc miền nam Trung Quốc:
- Quy Ngưỡng Tông, do đệ tử ngài Quy Sơn Linh Hựu (771-853) là Huệ Tịch (840-916) đến núi Ngưỡng Sơn (tỉnh Quảng Tây) thành lập thiền viện, xiển dương tông phong của thầy mình, lập ra tông Quy Ngưỡng.
b. Lâm Tế Tông, do ngài Lâm Tế Nghĩa Huyền (?-867) thành lập.
c. Tào Động Tông, do hai ngài Động Sơn Lương Giới (807-869) và Tào Sơn Bổn Tịch (840-991) thành lập.
d. Vân Môn Tông, do ngài Vân Môn Văn Yến (864-949) thành lập.
e. Pháp Nhãn Tông, do ngài Pháp Nhãn Văn Ích (885-958) thành lập.
2. Giáo ngoại biệt truyền: Truyền ngoài giáo lý (Special transmission outside the teachings), tức không dựa vào văn tự ngữ ngôn trong kinh để truyền dạy người tu thực hành. Trái lại, chỉ thẳng vào tâm và tính, giúp người tu thiền có khả năng kinh nghiệm trạng thái tâm và tính đó như thế nào. Đây là pháp thiền của Tổ Đạt Ma. Về sau, giáo ngoại biệt truyền trở thành chủ trương của Tổ Sư Thiền, tức Thiền Tông.
Thiền Tông xếp phương thức tu tập của mình là “giáo ngoại”. Còn các tông phái khác là “giáo nội” vì dựa theo kinh, luật, luận để tu tập.
3. Trực chỉ nhân tâm: Chỉ thẳng tâm người (Pointing directly to the human’s mind).
4. Kiến tánh thành Phật: Thấy tánh thành Phật (Attainment of buddhahood by realizing or perceiving the true nature of the world phenomena). Nhận ra chân tánh hiện tượng thế gian gồm pháp giới tánh là tathatā và pháp tánh là idappacayatā (điều kiện tính riêng biệt) và những nguyên lý tương quan nhân quả trong thế giới hiện tượng. Thiền Tông chủ trương muốn thành Phật, thành Tổ, người tu thiền dùng trí huệ Bát Nhã để thấu suốt chân tánh của hiện tượng thế gian.
5. Tổ Sư Thiền: Pháp thiền do Sơ Tổ Đạt Ma truyền dạy tại chùa Thiếu Lâm, núi Tung Sơn (Trung Hoa), gồm tiến trình của bốn câu kệ nêu trên. Bốn kệ này mới thực sự chính là chủ trương của Tổ Sư Thiền mà bắt đầu là Tổ Đạt Ma.
Sau đó tiếp nối đến Lục Tổ Huệ Năng và những hệ thống thuộc dòng thiền của đệ tử Lục Tổ thiết lập, gọi là Ngũ Gia Thất Tông*. Đặc biệt, điểm trọng yếu của Tổ Sư Thiền mà chúng ta cần lưu ý gồm hai điểm:
Một là chỉ thẳng vào tâm người. Phần chỉ thẳng này lại không được áp dụng rộng rãi cho đại chúng mà chỉ có vị thầy sáng đạo, hay đã kiến tánh, nhận ra trong số đệ tử của mình có người học trò nào có căn cơ cao, có kinh nghiệm tu tập thiền định, có pháp khí đại thừa (quyết tâm tiếp tục độ sinh) mới trực tiếp truyền riêng cách nhận ra tâm người, thực sự là tâm gì trong số ba loại tâm: (1) tâm phàm phu, (2) tâm bậc thánh và (3) tâm Phật, tức tâm Tathā.
Hai là, khi người học trò đã nhận ra được bản tâm của mình, thực sự là tâm Phật rồi, vị thầy mới hướng dẫn tiếp cách thực hành để nhận ra chân tánh hiện tượng thế gian như Phật Thích Ca đã trải qua giai đoạn đó trong tuần lễ thứ năm.
Riêng phần Sơ Tổ Đạt Ma, ngài còn dạy thêm nhiều pháp cho đệ tử. Trong đó có pháp Nhị Nhập Tứ Hạnh được xem như phương tiện hướng dẫn đệ tử đến nơi kiến tánh.
Vào thế kỷ thứ IX, trong quyển Thiền Nguyên Chư Thuyên Tập Đô Tự, thiền sư Tông Mật đã xếp thiền của Tổ Đạt Ma là Tối Thượng Thừa Thiền trong số năm loại thiền đương thời hoạt động tại Trung Hoa, gồm:
- Ngoại Đạo Thiền: Người tu thiền thích cảnh giới trên, chán cảnh giới dưới.
- Phàm Phu Thiền: Người tu thiền tin lý nhân quả một cách chân thật, nhưng cũng do tâm thích, chán mà tu tập.
- Tiểu Thừa Thiền: Người tu thiền này chỉ ngộ lý ngã không.
- Đại Thừa Thiền: Người tu thiền này chỉ ngộ lý ngã không, pháp không.
- Tối Thượng Thừa Thiền: Người tu thiền này đốn ngộ tâm mình vốn xưa nay thanh tịnh, vốn không phiền não, vốn đầy đủ trí tính vô lậu, tâm này là Phật, rốt ráo không khác; nương theo đó mà tu, gọi là Tối Thượng Thừa Thiền. Tối Thượng Thừa Thiền này là cội gốc của tất cả pháp thiền khác. Nó là do môn đệ của Tổ Đạt Ma truyền nối. Nếu có thể tu tập dần dần thì chứng được trăm nghìn tam muội.
Ngài kết luận, Thiền do ngài Đạt Ma truyền chính là Tối Thượng Thừa Thiền, cũng gọi là Như Lai Thanh Tịnh Thiền (gọi tắt: Như Lai Thiền) hay gọi là Nhất Hạnh Tam Muội (Ekavyūha-Samādhi), hoặc Chân Như Tam Muội (Tathatā-Samādhi).
Trong lịch sử Thiền Tông Trung quốc, qua lối nhận định trên của ngài Tông Mật về thiền truyền lại cho đệ tử, chúng ta thấy ngài Tông Mật là một thiền sư thật sự trình bày đầy đủ và rốt ráo thiền của Tổ Đạt Ma. Nhưng vì ngài đặt nặng thiền và giáo cần đi đôi hay thành một, và đặt nặng về tu Chân Như Định, xem đó là Tam muội vương căn bản mà Phật đã qua đó mà thành đạo, trở thành vị Phật lịch sử, nên bị một số tông phái thiền khác xem Như Lai Thanh Tịnh Thiền không phải là Tổ Sư Thiền. Thứ nhất là đặt nặng giáo nội, chớ không nhắm đến giáo ngoại. Thứ hai là ngài Tông Mật xem Nhất Hạnh Tam Muội hay Chân Như Tam Muội là phương tiện tối hậu của Như Lai Thiền. Trong lúc đó, giữa thế kỷ thứ IX, thiền hét, đánh... lại bắt đầu thịnh hành. Trong đó, nổi bật nhất là thiền do ngài Lâm Tế (?-867) hướng dẫn bằng tiếng hét. Còn ngài Đức Sơn (782-865) thì dùng gậy để khai ngộ người học. Từ hai lý do này Thiền của Tổ Đạt Ma phải bị mai một tại Trung Hoa.
Đến thế kỷ thứ X, người đầu tiên dùng từ “Tổ Sư Thiền” có lẽ bắt đầu từ ngài Quy Sơn và người được ghi lại về từ “Tổ Sư Thiền” là ngài Ngưỡng Sơn Huệ Tịch, học trò ngài Quy Sơn.
Dưới đây chúng tôi trích dẫn một đoạn ngắn trong việc xác định Tổ Sư Thiền của ngài Huệ Tịch đối với ngài Hương Nghiêm Trí Nhàn.
Hương Nghiêm Trí Nhàn: Hsiang Yen (802-898). Thọ 96 tuổi. Đệ tử ngài Quy Sơn.
Sư quê ở Thanh Châu, chán tục, xuất gia, đi tham vấn các nơi để học Thiền. Sư trụ lại tại thiền viện ở núi Quy. Thiền sư Quy Sơn nhận ra sư có khả năng trở thành một nhà học Phật cỡ lớn, và cố ý làm cho sư tỉnh ngộ. Một hôm, Quy Sơn bảo:
– Ta nghe ngươi hồi ở chỗ tiên sư Bá Trượng, ngươi có khả năng hỏi một đáp mười, hỏi mười đáp trăm. Điều này có thể được vì ngươi thông minh lanh lợi, và do sức hiểu và suy nghĩ của ngươi; nhưng tất cả điều này là cội gốc của sanh tử. Giờ đây thử nói một câu khi cha mẹ chưa sanh xem? Bản lai của ngươi là gì trước khi cha mẹ sanh?
Sư bị câu hỏi này làm mờ mịt, không đáp được. Trở về liêu, sư soạn hết sách vở đã học qua, tìm một câu đáp, trọn không thể có. Sư than:
– Bánh vẽ chẳng no bụng đói.
Sư đến cầu Quy Sơn nói phải cho sư biết rõ. Quy Sơn bảo:
– Nếu ta nói cho ngươi, về sau ngươi sẽ chửi ta; ta nói là việc của ta, đâu can hệ gì đến ngươi.
Sư bèn đem những sách vở đã thu thập được, đốt hết. Sư nói:
– Đời này chẳng học Phật pháp nữa, chỉ làm tăng thường, làm việc cơm cháo, khỏi nhọc tâm thần.
Sư khóc, từ giã Quy Sơn, ra đi. Thẳng đến Nam Dương, chỗ ngôi mộ của quốc sư Huệ Trung, sư trụ tại đây.
Một hôm, nhân giẫy cỏ, sư lượm hòn gạch, ném trúng cây tre, vang lên tiếng kêu. Ngay đó, sư liền tỉnh ngộ, phá lên cười. Sư trở về am, tắm gội, thắp hương, nhắm hướng núi Quy, đảnh lễ, tán thán ngài:
– Hòa Thượng từ bi, ơn hơn cha mẹ. Nếu ngày đó nói hết cho con thì sao có việc này xảy ra?
Sau đó sư làm một bài tụng:
Quy Sơn nghe được, nói với Ngưỡng Sơn:
– Kẻ này đã ngộ.
Ngưỡng Sơn thưa:
– Điều này có lẽ máy tâm trí trước thuật được, hoặc kết quả của quán tính đọc và viết làm ra. Xin đợi con đến dò xét mới chắc.
Sau đó, Ngưỡng Sơn đến thăm Trí Nhàn, bảo:
– Hòa Thượng khen ngợi sư đệ đã phát minh đại sự. Thử nói về điều đó xem.
Trí Nhàn ngâm bài tụng trước cho Ngưỡng Sơn nghe. Ngưỡng Sơn bảo:
– Đó là do trước kia học tập ghi nhớ mà thành; nếu thật chánh ngộ, hãy làm bài tụng khác.
Trí Nhàn nói tụng:
– “Năm xưa nghèo chưa thật nghèo
Năm nay nghèo mới thật nghèo
Năm xưa nghèo vẫn còn có đất cắm dùi
Năm nay nghèo, dùi cũng không”.
Ngưỡng Sơn bảo:
– Sư đệ ngộ Như Lai Thiền, mà chưa ngộ Tổ Sư Thiền.
Trí Nhàn ngâm bài tụng khác:
– “Ta có một cơ
Chớp mắt chỉ y
Nếu người chẳng hội
Riêng gọi Sa di”.
Ngưỡng Sơn trở về, thưa lại Quy Sơn:
- Con mừng sư đệ Trí Nhàn đã ngộ Tổ Sư Thiền.
Từ chỗ ngộ đạo này, về sau sư dạy lại kinh nghiệm của sư cho đại chúng:
– Đạo do ngộ từ nội tâm mình mà được, chứ chẳng tại ngữ ngôn. Hãy nhìn vào cái vô hình và vô biên. Ngươi có tìm thấy tình trạng gián đoạn nào ở đó không? Sao ngươi lại có thể nhọc tâm trí để đến đó? Nó chỉ là hồi quang phản chiếu và đó là toàn bộ công việc hằng ngày của ngươi. Chỉ có những kẻ mê, thì đi trái hướng.
* * *
6. Tống Vân: Sứ thần vua Hiếu Minh Đế (Bắc Ngụy), năm 518, từ Lạc Dương, sư cùng với hai vị sư khác là Pháp Lực và Huệ Sinh vâng mệnh vua đi truyền bá Phật pháp tại nhiều nơi ngoài nước Tàu, quen gọi là Tây Vực. Hai năm sau (năm 520), sư đến Ấn Độ, chiêm bái Phật tích tại Bồ Đề đạo tràng và những nơi khác. Tại Ấn Độ, sư đã thỉnh được 170 bộ kinh Đại Thừa (bằng tiếng Sanskrit). Tháng 2 năm 522 hoặc 523, sư trở lại Lạc Dương. Trên đường về, sư soạn quyển “Tống Vân Hành Ký”. Trong quyển sách này không có ghi chuyện tích Tống Vân gặp Tổ Đạt Ma tại Thông Lãnh như Cảnh Đức Truyền Đăng Lục đã ghi. Do đó, nhiều sử gia đã cho rằng chuyện tích Tống Vân gặp Tổ Đạt Ma là hư cấu.
7. Khuê Phong Tông Mật (780-841): Thiền sư Trung Hoa, hiệu Định Tuệ thiền sư, Tổ thứ năm của Tông Hoa Nghiêm, sống vào đời Đường, họ Hà, quê ở Quí Châu, hiện nay là huyện Tây Sung, tỉnh Tứ Xuyên. Năm 807, trên đường đến kinh đô để dự thi, khi đến Toại Châu, nhân duyên đúng lúc, sư bỏ ý nguyện thi cử để ra làm quan mà xin xuất gia làm tăng với thiền sư Đạo Viên, sau khi sư nghe Hòa Thượng giảng pháp.
Về Pháp hệ, sư thuộc đời thứ bốn của dòng thiền Hà Trạch Thần Hội (668-760):
a. Pháp Như,
b. Duy Trung hoặc Nam Ấn,
c. Đạo Viên,
d. Tông Mật.
Là đệ tử đời thứ tư của ngài Thần Hội, ngài Tông Mật dùng yếu chỉ của ngài Thần Hội để đại biểu cho Thiền học thời bấy giờ (cuối đời Đường), kết hợp với Giáo lý Hoa Nghiêm, chủ trương Thiền Giáo Đồng Hành.
Yếu chỉ dạy thiền của ngài Thần Hội: “Một chữ biết” (Tri). Ngài giải thích: tri tức linh tri, là cái tâm rỗng lặng do Tổ Đạt Ma truyền thụ. Vì mê nên mất linh tri, nên khởi ngã tướng, vọng chấp “có ta, của ta”, nhận các đối tượng khách quan bên ngoài là sở hữu của ta, nên bị vướng mắc trong thế giới đối đãi tự-tha (mình-người), thiện ác. Nếu liễu ngộ cái linh tri tịch diệt thì bi trí thêm sáng, tội ác đoạn trừ, công hạnh tự nhiên tinh tiến.
8. Tâm ấn: Thuật ngữ của Thiền Tông. Thiền Tông chủ trương: chữ viết (văn tự) và lời nói (ngôn ngữ) là hai phương tiện tuy rất hữu ích trên phương diện truyền thông, nhưng cả hai không thể giúp ta hiểu thấu được trạng thái tâm, tức pháp tự nội chứng của Phật như thế nào. Đó là trạng thái Như (Tathā). Thiền Tông dùng trạng thái Như mà Phật tự nội chứng gọi là Phật tâm. Ấn chỉ cho chân lý do Phật chứng ngộ, được Tổ dùng để chỉ như dấu ấn mà trong thế gian dùng; quyết định không thay đổi.
9. Thất Tông: Bảy tông. Ngoài Ngũ tông đã nêu, trong đó có hai tông, vốn từ tông Lâm Tế hình thành:
a) Dương Kỳ Phương Hội (996-1049). Tổ khai sáng thiền phái Dương Kỳ, một trong Ngũ Gia Thất Tông. Đệ tử nối pháp của ngài Thạch Sương Sở Viên (986-1039).
b) Hoàng Long Tuệ Nam (1002-1069). Tổ khai sáng thiền phái Hoàng Long. Đệ tử nối pháp cuả ngài Thạch Sương Sở Viên.
Pháp Thiền của Tổ
Luận Nhị nhập Tứ Hạnh (the Treatise of Two Entrances and Four Deeds/Practices). (Tư liệu này đào lên được tại động Đôn Hoàng, hiện được tàng trữ tại bảo tàng viện Luân đôn, Anh quốc). Đây là Luận của Tổ Đạt Ma trình bày yếu chỉ tu thiền mà Tổ đã dạy đệ tử tại chùa Thiếu Lâm.
NHỊ NHẬP gồm hai phần vào Đạo: Lý nhập và Hành nhập. Cả hai cần kết hợp. Lý là lý luận. Hành là thực hành lời dạy của Phật trong kinh, gọi là giáo. Đạo là chân lý tối hậu. Nó ngoài lời, nhưng mượn lời để dẫn đến Đạo.
- i. Lý Nhập. Trọng tâm phần này Tổ dạy đại ý như sau:
Nhờ vào giáo nghĩa của kinh mà ngộ được tâm tông. Tin sâu rằng tất cả chúng sinh (all living beings) từ phàm đến thánh đều có cùng chân tánh (the same true nature), nhưng vì do khách trần phiền não ngăn che, nên không hiển lộ được. Nếu có thể bỏ vọng về chân, lắng tâm quán xét, không thấy có mình, có người, phàm thánh đồng nhất, kiên cố không dời đổi, không theo ngôn giáo, văn tự; như vậy, tức thầm hợp với chân lý, không còn phân biệt, vắng lặng vô vi, gọi là lý nhập.
Tổ dạy:
Nhiều đường dẫn đến Đạo, nhưng cơ bản chỉ có Lý (reason) và Hành (practice). Vào bằng lý có nghĩa ngộ (realize) cốt tùy của Đạo qua giáo (instruction) và tin rằng tất cả chúng sanh đều có cùng chân tánh (true nature). Nhưng chân tánh này nó chưa hiển lộ (apparent) vì nó bị che lấp (shrouded) bởi vọng tình (sensation and delusion). Người nào chuyển mê (delusion) đến thực tại, ai bích quán (meditate on walls), mất (the absence of) ngã (self) và ngã sở (other)... và ai duy trì trạng thái bất động kể cả do kinh được đầy đủ và không nói một lời với lý, tâm không động, không cố gắng, họ vào, ta nói do Lý.
- ii. Hành Nhập. Vào do hành chỉ cho bốn cách thực hành (Tứ hành):
- Báo oan hành (the Deed of Retribution of Evil)
Nội dung phần này, Tổ dạy: Người tu hành, khi tu, nếu gặp điều oan ức, nghịch cảnh, khổ nạn thì nên xem đó là quả báo của ác nghiệp mà mình đã tạo ra trong kiếp trước hay thời gian trước đó, nay tuy đã xuất gia tu rồi, không tạo ác nghiệp nữa mà bỗng dưng chịu nhiều điều oan ức, nên biết đó là quả báo, nên kham nhẫn chịu đựng, chớ phàn nàn, chớ kêu oan. Khi tâm kham nhẫn chịu đựng được những oan ức đó thì phù hợp với lý, hóa giải được oan nghiệt, vững tiến trên đường đạo. Đó gọi là báo oan hành.
- Tùy duyên hạnh (the Deed of Dependence upon Causation)
Chúng sinh vô ngã, sống trên đời đều do nghiệp chuyển, khổ vui cùng chịu, đều từ duyên sinh. Nếu được quả báo thù thắng, vinh dự đều do nhân đời trước mang lại. Khi duyên hết thì hoàn không. Được mất tùy duyên, tâm không thêm bớt, gió vui chẳng động; ngầm thuận với Đạo. Đó là tùy duyên hạnh.
- Vô sở cầu hạnh (the Deed of Non-seeking)
Kinh nói: “Cầu là khổ. Cầu không có gì là vui”. Khi ngươi cầu không có gì, ngươi trên Đạo. Người đời mê đắm, luôn luôn dính mắc với tham, gọi là Cầu. Người trí hiểu lý chân thực an tâm vô vi, nhận ra rằng vạn pháp thực sự đều không (all things are essentially empty: śūnya). Vì vậy, khi đã phát tâm tu thì không mong cầu tất cả thú vui, danh tiếng, lợi lộc thế gian. Chỉ có một lòng trên đạt được giác ngộ dưới giáo hóa chúng sinh, chứ không mong cầu gì khác nữa. Đó gọi là Vô sở cầu hạnh.
- Xứng pháp hành (the Deed of Accordance with the Dharma)
Lý tính thanh tịnh gọi là Pháp. Xứng pháp hành là thực hành đúng pháp. Pháp này là không có các tướng, không nhiễm, không dính, chủ thể và khách thể đều không hiện hữu. Kinh nói: “Pháp gồm phi hữu vì nó thoát ra khỏi bất tịnh của hữu, và pháp vô ngã vì nó thoát ra khỏi bất tịnh của ngã”. Người trí tin hiểu lý này nên thực hành đúng.
Hòa Thượng Thích Thông Triệt
[1] Về câu này, trong quyển Thiền Nguyên Chư Thuyên Tập Đô Tự, ngài Khuê Phong Tông Mật ghi là “Ngoài dứt các duyên, trong tâm không thở, tâm như tường vách, mới vào được Đạo”.
[2] Tâm thể vô niệm = bản thể vô niệm của tâm = tâm như = nhận thức biết không lời.
[3] đoạn diệt = trơ trơ không biết gì.
[4] Sở đắc của mình = điều mà mình đã được.
[5] Phật A Súc = Akṣobhya Buddha = Bất động Phật, hay Vô Sân Phật; tên của vị Phật trong Tông Tịnh độ và Mật tông, gọi đủ là A Súc Bệ Phật. Tên vị Phật này được thấy ghi trong kinh A Súc Phật Quốc Kinh (Akṣobhya-tathāgatasya); hiện nay không còn lưu hành.
[6] Tri kiến Phật = trí Phật = Buddha-Jñāna = Buddha’s knowledge = Nhất thiết trí. Khi kinh Pháp Hoa đề cập tri kiến Phật, thuật ngữ này là tri kiến của Như lai (Tathāgatajñāna-darśana) = Đây là sự thấy biết của Như Lai về pháp giới tánh và pháp tánh. Đại ý của kinh muốn nêu lên: Phật xuất hiện ở đời vì đại sự nhân duyên là muốn giúp cho chúng sinh khai mở tri kiến Phật; chỉ bày cho chúng sinh thấy tri kiến Phật; ngộ được tri kiến Phật, và sau cùng là giúp cho chúng sinh nhập vào tri kiến Phật.