Triệt Như - Tâm Tình Với Nhau - Bài 63
Cô đã tạm đúc kết những ý chính đã gởi gấm trong loạt bài Tâm tình vừa qua, cô cũng đã đọc những dòng hồi âm của các em nhiều lần. Tuy nhiên khi đọc lại bài đúc kết của cô, cô cảm thấy chưa đầy đủ, chưa rõ ràng. Nên bây giờ cô lại thấy mình cần phải tổng hợp thêm nữa để vẽ lại con đường dẫn đến <kho tàng trí tuệ> hay Phật Tánh, hay nói cho dễ hiểu và thu hút, theo bình dân, là <kho tàng hạnh phúc> của con người.
Chư Tổ nói đó chính là “tự gia bảo”, là kho báu của nhà mình, vậy mà sao mình không biết, mình cứ đi khắp nơi tìm kiếm, làm người “cùng tử” nghèo hèn, khổ cực lang thang. Vô minh là gì ? là đó. Cho nên: “Tức tâm tức Phật” mới giáng cho ngài Đại Mai cái đại ngộ tức thì.
Đây là cái “hồng tâm của kho tàng trí tuệ”, nghĩa là mọi điều kiện tu đều bắt buộc phải nhắm tới nó. Nó thực ra là cái gì? Chỉ là cái Tâm. Là cái Biết. Đơn giản vậy thôi. Nhưng khi muốn trình bày ra thì phải dùng ngôn ngữ, nó mặc nhiên trở thành rắc rối hơn, phức tạp hơn. Càng giảng rộng thì càng đi xa nó. Mà không giảng thì cũng không được. Vậy phải làm sao đây?
Cô còn nhớ khi xưa, Thầy có giảng về tiến trình tu chứng của đức Phật Thích ca, sau khi ngài chứng ngộ hoàn toàn, ngài nhìn ngắm thế gian và nói: “Lạ thay, tất cả chúng sanh đều có đầy đủ đức tướng trí huệ Như Lai, mà tại sao lại cứ cam tâm chịu sanh tử luân hồi mãi?”
Mình thông cảm tâm tình của chư Phật và chư Tổ, khó khăn biết bao, làm sao để chỉ ra cái Tâm, là cái Biết trống không, trống rỗng, trong veo, mà sáng chói, bình đẳng, khách quan, từ bi hỷ xả, sáng tạo, sắc bén, chính xác, biết bao quát tất cả con người, vũ trụ, quá khứ, vị lai. Mà không từng dao động, lay chuyển, xao xuyến, hay bị vẩn đục.
Mấy năm sau này, khi xong một khóa tu, cô thường đúc kết lại, và cô chỉ vẽ một cái vòng tròn thôi. Cái vòng tròn trống không, không chú thích cái gì thêm trong đó. Và cô giải thích, đó là cái bản thể của Tâm, tức là gốc nguồn đầu tiên của cái Biết của mình là như vậy, “tâm tánh bản tịnh”. Nhưng “khách trần nhiễm ô”, cho nên mình mới chìm trong biển khổ nhiều đời.
Khi nhận ra thực sự như vậy, thì mình sẽ phải biết có vô số phương cách để trở về chỗ đó, tùy theo căn cơ của mỗi người. Vì mỗi người có những hoàn cảnh sống khác nhau, người thì mang nhiều trách nhiệm với cha mẹ, gia đình con cháu, người thì sức khỏe không tốt, người thì trí nhớ suy kém, khả năng hiểu biết, chọn lọc, lý luận, phân tích của não bộ mỗi người khác nhau, do đó Đức Phật và chư Tổ đã tạm bày ra vô số phương tiện, cho vô số căn cơ.
Mục đích duy nhất là chỉ cho mình làm thế nào để nhận ra cái Tâm thực sự của mình, trong đó không có buồn phiền đau khổ. Rồi sau khi nhận lại rõ ràng cái Tâm này thì mình phải sống trong cái trạng thái đó, dù thân mình vẫn tiếp xúc với cuộc đời bình thường. Đó là thoát khổ, là giải thoát, là giác ngộ. Đơn giản như vậy thôi.
Kinh Pháp Hoa cũng trình bày phương thức này: Khai, Thị, Ngộ, Nhập.
Tới bây giờ, chắc là đa số chúng ta đều hiểu rõ cái Biết nguyên thủy trong sáng đó, Thầy mình tạm gọi là Cái Biết Không Lời. Kinh gọi là Chánh Niệm. Có khi chỉ nói một chữ Niệm.
Trên đây mình đã đúc kết cái “hồng tâm” của con đường tu của mình, mình phải nhắm tới. Nó rõ ràng, trong sáng và đơn giản.
Bây giờ tới phần thứ 2, là phần mình phải đi ra sao? Phần này có thể rắc rối hơn, vì tùy theo mỗi người, căn cơ, hoàn cảnh, và ý chí khác nhau xa lắm.
Cái nhan đề của bài này, cô dùng chữ “con đường mòn” trong ý là nhiều người đã đi qua trước mình. Đầu tiên có Đức Phật Thích Ca, tuy nhiên nếu nói rộng ra thì tất cả các vị Phật đời quá khứ cũng có những hoàn cảnh sống và tu chứng tương tự với Đức Phật Thích Ca. Điều này cũng rất hữu ích nếu có dịp cô sẽ trở lại. Tiếp theo là chư Tổ Thiền. Chúng ta sẽ cố gắng tìm ra cái mẫu số chung đòi hỏi mình khi mình muốn đi tới mục tiêu cuối cùng.
Có rất nhiều cách bắt đầu con đường đi. Nói theo kinh điển, phổ thông như từ trước mình đã học, đã biết:
- Tứ Diệu Đế: hiểu cuộc đời là biển khổ, nguyên do vì mình tham đắm vào cuộc đời, do lòng khát ái ngũ dục, từ đó biết nếu chấm dứt khát ái thì chấm dứt biển khổ, và thực hành 8 phương thức tu, sẽ đạt được chánh trí và chánh giải thoát. Con đường này cũng bao quát Giới- Định và Huệ.
- Giới- Định- Huệ: bắt đầu giữ gìn hành động, lời nói và ý nghĩ thiện lành, làm trong sạch tâm từ từ (Giới), đưa tới tâm không dính mắc vào cuộc đời, yên lặng, dừng tâm lại (Định), rồi sẽ có cái thấy biết khách quan, sáng suốt, bình đẳng (Huệ) cũng là trở lại tâm thể trong sáng ban đầu của mình.
- Quán- Chỉ- Định- Huệ: học hiểu những chân lý của cuộc đời và ứng dụng trong cuộc sống: qui luật vô thường, qui luật duyên khởi duyên sinh,(Quán và Tuệ trí) bớt dính mắc vào cuộc đời, tâm yên lặng (Chỉ) khi tâm vững chắc dừng lại (Định) trí huệ sẽ phát sáng (Huệ).
- Tứ Niệm Xứ: có thể chọn chủ đề thân (quan sát hơi thở để tâm dừng lại, đồng thời không dính mắc vào chuyện đời, thân, khẩu, ý đều trong sạch trong khi thực hành), hay chọn chủ đề Thọ (luôn quan sát tâm và thân mình để nhận ra thọ bằng cái biết không lời, đó là trở về cái bản thể trong sáng của tâm) v.v...
- Pháp Như Thực/ Yathàbhùta. Qua tất cả giác quan đều biết “cái đang là” của cảnh. Lúc đó cũng nhận ra cái đang là của tâm. Tức thì trở về bản thể trong sáng của tâm.
Trên đây là những nét chánh yếu, quan trọng của bản đồ “kho tàng trí huệ” của mình. Phật và chư Tổ đã đi, là con đường mòn, mình cứ đi theo thì sẽ tới nơi. Mình đừng bày vẽ ra thêm cái gì mới lạ hơn. Có khi lệch đường mà mình không hay.
Tuy nhiên tại sao có người đi tới nhanh, có người tới chậm, mà nhiều người lại chưa tới?
Đây mới chính là vấn đề thiết yếu nhất của mình. Tại sao vậy?
Có nhiều câu trả lời lắm. Có thể là:
- Chưa nhận rõ mục tiêu của cuộc đời mình là gì? Là hạnh phúc gia đình, là làm tròn trách nhiệm với cha mẹ, vợ con, anh em. Là danh tiếng, tài sản, địa vị v.v...Cho nên mục tiêu tâm linh là chưa quan trọng. Đợi cho tới khi làm xong bổn phận đối với gia đình rồi mới toàn tâm ý tu tập. Hay là vừa tu tập vừa lo cho gia đình. Vài giờ được tâm thanh thản, nhẹ nhàng để rồi lo cho cuộc sống bận rộn chung. Đó là điểm khác biệt rõ nhất với cuộc sống của những vị tiền bối đã đi trên con đường mòn từ hơn 2500 năm nay. Ngay cả bao nhiêu Đức Phật thời cổ đại, điều kiện đầu tiên là rời bỏ gia đình, bỏ cả ngôi vua, vào sống nơi núi rừng hoang vắng, thì mới toàn thời gian, toàn tâm ý tu tập.
- Vậy điều kiện quan trong là phải tinh cần, chuyên tâm, miên mật, không lơ là, tâm không để ý tới việc gì khác. Chứ không bắt buộc mình xuất gia. Xuất gia, sống trong rừng núi, đi khất thực ...là phương cách thực hiện để có thể chuyên tâm, không bận rộn vì những quan hệ, những việc làm vô ích.
- Luôn quan sát tâm mình. Đây chỉ là một cách tạm nói. Vì nếu có tâm để mình quan sát thì hóa ra có người quan sát và có đối tượng, thì còn phân biệt “chủ thể- đối tượng”. Muốn không dính mắc vào bên ngoài thì nhớ quay vào nhận biết tâm mình, nó đang là trạng thái Biết không lời, rỗng rang tĩnh lặng, biết khách quan tất cả mà không dính mắc vào đâu. Không lời diễn tả thì lúc đó không phân biệt chủ -khách.
- Điều này quan trọng, cô nhắc lại là lúc nào nhớ thì nên nhận ra tâm mình đang ra sao. Mình cứ thực hành hoài như vậy thì tâm mình thường xuyên bị kiểm soát, dù cho mình đang khởi tâm buồn, hay giận, hay lo...Lập tức cái trạng thái buồn, giận hay lo đó chấm dứt ngay, đây là phương thức chấm dứt của Định. Đồng thời mình quán xét xem do đâu mình buồn, giận hay lo. Buồn vì mình vừa nhớ tới quá khứ, giận vì mình mới dính mắc vào nghiệp của người khác, lo vì mới phóng tới tương lai v.v... Cách Quán hay tuệ trí này, còn có lời, suy nghĩ, lý luận, nhưng giúp mình giải tỏa thực sự cái buồn, giận hay lo của mình tận nguồn gốc. Thì nó sẽ không khởi lên nữa.
Con đường tu rốt ráo chỉ là vậy thôi. Không mơ hồ. Nếu chưa thấy rõ thì là mình chưa đủ ý chí quan tâm tìm hiểu. Khi có nhận thức rõ ràng “con đường mòn” mà chư Phật và chư Tổ đã đi qua rồi, không có chông gai, núi đồi cản trở, không có cọp beo, ma quái gì hết, thì mình phải can đãm mà đi. Nhà của mình ở đó, đi mau về nhà, trời sắp tối. Vô nhà rồi thì an toàn thảnh thơi. Gặp Phật, gặp Tổ, gặp Thầy, gặp bạn, toàn là thiện tri thức. Sau đó, Thầy ngày xưa mới dạy: Vô nhà rồi, mình phải đi ra ngoài, thấy trời đất bao la, thấy con người vẫn còn khổ, chừng đó mình mới giúp đời.
Tới đây, cô tạm ngừng. Xem như “con đường mòn tâm linh” đã vẽ rồi, chúng ta cứ yên tâm bước tới. Đi tới đâu là tùy mỗi người thôi. Mỗi người là tác giả của dòng sống của riêng mình. Mỗi kiếp sống là tác phẩm của chính mình sáng tạo ra. Đau khổ hay hạnh phúc là tự mình vẽ ra cho mình. Cảnh đời bên ngoài cũng là tác phẩm của chính mình sáng tạo.
Hổm rày, cô tập chụp ảnh, tập ghép lại làm thành video. Cô đã làm cái video về Hoa Lá ở Tổ Đình mùa xuân năm nay, những hình ảnh đẹp đối với cô, vì cô chỉ ngắm và nắm bắt khía cạnh đẹp của sân vườn Tổ Đình, biết đâu người khác sẽ thấy khía cạnh khác hơn. Cuộc đời cũng tương tự vậy. Mỗi người có thể thấy hoàn toàn khác nhau. Mà ai thấy? Là cái Tâm. Chính là cái Tâm của mình. Cho nên tu chỉ là làm sao chuyển đổi cái cách thấy, để nó thấy đúng với thực tại. Mà thực tại là sao?
Thực tại là tĩnh lặng, là trống rỗng, không có tên gọi, không có phẩm chất (tốt / xấu), hoàn toàn khách quan, không bao giờ thay đổi, từ khởi thủy cho tới bây giờ và mãi mãi về sau. Muốn thấy đúng cái thực tại đó, tâm mình cũng phải tĩnh lặng, trống rỗng, không có lời gọi tên, thì mới khế hợp với thực tại. Đây là cái “logic” của Thiền.
Chỗ đó là trạng thái tâm “ngoài lý luận”, mới nhận ra trạng thái “ngoài lý luận” của cảnh. Đây là chỗ “hợp lý luận” của Thiền.
Trong kinh là thuật ngữ: Atakkàvacara / beyond logic.
Kinh phát triển nói là: tâm như, cảnh như.
1- 9- 2020
TN