Triệt Như - Tâm Tình Với Nhau - Bài 13
Xung đột đưa đến đau khổ. Hài hòa đưa đến an vui.
Trong Thanh Quy của chúng ta, Thầy Thiền Chủ từ hơn 20 năm trước đã chủ trương: mục tiêu của con đường tu mà Thầy hướng dẫn là đưa tới sự Hài hòa. Thầy thường giảng: trước nhất là tâm phải hài hòa, sau mới điều chỉnh được thân hài hòa. Thân hài hòa rồi lại ảnh hưởng tâm càng an vui hài hòa hơn nữa.
Thầy không đưa ra mục tiêu cao nhất của Phật giáo là: Thoát khổ, Giác ngộ và Giải thoát. Muốn đạt được mục tiêu đó không phải trong 1 đời này. Cũng phải là những tiến trình tu tập gian khổ, trải dài qua nhiều kiếp sống.
Thực ra, Hài hòa cũng đòi hỏi thời gian và công sức, căn cơ, chứ không phải 1 tháng, 1 năm hay 3 năm, 5 năm...
Muốn hài hòa tâm, cũng là trong sạch tâm. Con đường tu tập rốt ráo chỉ là vậy.
Bài kinh Niệm Xứ, Phật nói:
“Này các Tỷ-kheo, đây là con đường độc nhất đưa đến thanh tịnh cho chúng sanh, vượt khỏi sầu não, diệt trừ khổ ưu, thành tựu chánh trí, chứng ngộ Niết-bàn. Đó là Bốn Niệm xứ.”
Tâm chúng ta không trong sạch, vì cái Ngã tham- sân- si, vì lậu hoặc, nên cần phải chuyển hóa nó. Đó là cái nhìn của thực tế, cái thấy của người đời. Trong nhà Thiền gọi là cái thấy của Tục đế Bát nhã, còn gọi là “bất liễu nghĩa”.
Cũng là cái thấy của ngài Thần Tú, đệ tử thứ 2 của Ngũ tổ Hoằng Nhẫn, thế kỷ thứ VII, qua bài kệ trình kiến giải với thầy:
“ Thân thị Bồ Đề thọ
Tâm như minh cảnh đài
Thời thời thường phất thức
Vật sử nhạ trần ai.”
Tạm dịch:
“Thân như cội Bồ đề
Tâm như đài gương sáng
Mỗi ngày phải lau chùi
Chớ để dính bụi nhơ”.
Do cái phương thức tu tập từ từ, mỗi ngày “ lau chùi tâm” thích hợp với căn cơ của hầu hết thiên hạ- trung căn và hạ căn- nên ngài Thần Tú là quốc sư, làm thầy cho cả nước trong triều đại của Võ Tắc Thiên hoàng đế.
Trong khi đó, ngài Huệ Năng, tại sao được Ngũ Tổ truyền y bát kế thừa Tổ vị? Do kiến giải của ngài vượt lên kiến giải của ngài Thần Tú:
“ Bồ đề bổn vô thọ,
Minh cảnh diệc phi đài
Bản lai vô nhất vật,
Hà xứ nhạ trần ai”
Tạm dịch:
“Bồ đề không phải cây.
Gương sáng cũng chẳng đài
Xưa nay không một vật,
Chỗ nào dính bụi nhơ”.
Đây là cái thấy rốt ráo, thấy tới bản thể của sự vật, bản thể Không, bản thể Huyễn, hay chân như tánh của tâm và của thế gian. Cũng gọi là cái thấy theo Chân đế Bát nhã hay “liễu nghĩa”. Ngài Huệ Năng đã nói lên ý nghĩa này, một lần nữa khi kinh nghiệm tâm thể trong sáng rỗng rang:
“ Đâu ngờ tự tánh vốn tự thanh tịnh,
Đâu ngờ tự tánh vốn tự đầy đủ,
Đâu ngờ tự tánh vốn không giao động,
Đâu ngờ tự tánh vốn không sanh diệt,
Đâu ngờ tự tánh hay sanh muôn pháp”.
Kết quả là sao ? Ngài Lục tổ Huệ Năng lui về quê hương miền nam của mình và giáo hóa, phương thức “đốn ngộ”. Ngài Thần Tú thì ở phương bắc, nơi kinh đô phồn hoa náo nhiệt để giáo hoá, phương thức “tiệm tu”. Sau đó, ngài Huệ Năng có nhiều đệ tử sáng đạo, nên y bát không truyền nữa: ngài Huệ Trung về sau cũng làm quốc sư, thiền sư Hành Tư, thiền sư Bổn Tịnh, thiền sư Thần Hội, thiền sư Hoài Nhượng, thiền sư Huyền Giác...đều nổi tiếng.
Chư Tổ Phát triển cũng tuyên bố: “ Tâm tánh bản tịnh, khách trần nhiễm ô”.
Bản thể tâm của mình là trong sạch, trong sáng. Tức cái trạng thái nguyên thủy của tâm là cái Biết thuần nhất, khách quan, rỗng không. Biết rõ ràng mà không xét đoán, không phân biệt, nên không thương ghét, không dính mắc. Nên tâm sống trong đời mà tâm không lung lay, không gợn sóng. Chư Tổ gọi đó là đại định, là định “không xuất không nhập”, là “tám gió thổi không động”.
Làm sao tu tập định này?
Trước nhất, bằng tuệ trí, hiểu thật rõ ràng vạn vật đều do nhân duyên sanh ra. Khổ cũng do nhân duyên sanh. Tất cả đều sẽ thay đổi. Từ đó, tiếp xúc với cảnh trần, bớt dính mắc, nhận thấy tất cả đều như cảnh giả trong chiêm bao. Cuối cùng đi tới tâm dừng lại. Đó là Định. Định mà nền tảng là Tuệ, cho nên không bị thoái chuyển.
Tâm không bị cưỡng ép phải dừng. Nếu không có Tuệ làm nền tảng, thì có khi phải dùng tới Giới để nắm giữ tâm.
Như vậy, con đường tu có tuệ trí sẽ là con đường ngắn nhất, vững chắc nhất. Vì sao? Nhờ tuệ trí hiểu tới bản thể của tâm là trong sạch, bản thể cuộc đời là trống không, là duyên sanh, từ đó sẽ làm cho tâm dừng lại. Tức là Định. Khi tâm dừng rồi, thì không thoái chuyển, Đó là con đường ngắn và vững chắc.
Khi nói bản thể tâm là trong sạch, điều này cũng có nghĩa bản thể của tâm là hài hòa. Là an vui, thanh thản, trong sáng, khách quan, từ bi, trí huệ, là chói sáng.
Với tâm trong sạch, tĩnh lặng, hài hòa, khách quan, chói sáng đó, nhìn ra thế gian, sẽ thấy ra sao?
Sẽ thấy cả vũ trụ này tĩnh lặng, an vui, hài hòa tuyệt diệu và chói sáng.
Này là cỏ cây hoa lá đang sống động rào rào, hòa điệu nhịp nhàng với nắng mưa, sương gió. Mùa xuân mát với mưa trong, cây bồ đề nẩy chồi, hoa mai hoa đào nở rộ trên cành. Để rồi tàn phai trong nắng ấm. Mùa hạ sang, lá bồ đề xanh hơn, hoa trúc đào khoe sắc đong đưa trong gió, những dây tiêu trái xanh, trái hồng, nhè nhẹ lung lay, như vũ điệu tuyệt vời theo bài hát không âm thanh.
Cả thế gian rào rạt sức sống, vươn mình lên trong ánh sáng, mỗi người, mỗi cảnh đẫm mình trong một âm điệu hài hòa tuyệt vời. Mặt trời, mặt trăng, ngôi sao, hay hành tinh xanh của chúng ta, tất cả, tất cả đang sống, đang động, di chuyển, biến hóa, thay đổi theo một sự nhịp nhàng, hài hòa của nhân và duyên.
Nếu cả vũ trụ không hài hòa, thì vũ trụ sẽ rã tan như mây khói. Nếu thân tâm con người không hài hòa thì con người cũng rã tan như khói mây.
Tại sao tất cả bản thể, bản chất là hài hòa? Vì bản thể, bản chất tất cả thế gian là trống không. Tất cả sẽ kết hợp hài hòa theo nhân duyên, rồi sẽ rã tan hài hòa theo nhân duyên, rồi lại kết hợp hài hoà theo nhân duyên nữa...Đó là một sự hài hòa phổ quát, thênh thang qua không gian và qua thời gian không cùng tận.
Vậy, qui luật xung đột là đúng hay qui luật hài hòa là đúng?
Xung đột là khổ đau. Hài hòa là an vui, là niết bàn.
Một cái thấy theo người thế gian, đúng theo thực tế của cuộc đời.
Một cái thấy của bậc tỉnh thức, đứng trên bản thể của cuộc đời.
Tổ Đình
16- 5- 2020
TN