HỘI THIỀN TÁNH KHÔNG TRUNG ƯƠNG

HT Thích Thông Triệt: KINH BĀHIYA

01 Tháng Mười Một 202210:45 SA(Xem: 2708)

KINH BĀHIYA

 

Trích đoạn trong Bài đọc thêm về chủ đề "KINH BĀHIYA"

do Hòa thượng Thích Thông Triệt biên soạn

HT-Thông-Triệt--KCB-2010-#-43

 

 

Kinh Bāhiya là bài kinh Phật dạy liên hệ đến những chức năng bên trong cơ chế tánh giác gồm tánh thấy, tánh nghe, tánh xúc chạm và nhận thức không lời. Đây là bài kinh được chúng tôi rút ra từ trong kinh Phật Tự Thuyết, Chương 1 Phẩm Bồ Đề, thuộc Tiểu Bộ Kinh của kinh tạng Pāli, thuộc hệ kinh Nguyên Thủy.

 

Bài kinh này nói lên trường hợp triệt ngộ tức khắc của ông Bāhiya qua sự lắng nghe Phật giảng với điều kiện tâm của ông Bāhiya có mang một mối nghi lớn là làm sao để đạt được hạnh phúc an lạc lâu dài. Sau khi nghe Phật giảng, ông đã thấu đáo tức khắc điều đó và đắc quả A La Hán.

 

Sơ lược tiểu s ông Bāhiya

 

Ông Bāhiya là vị A La Hán vào thời Phật Thích Ca Gotama. Ông mang tên này vì ông sinh trưởng tại ngôi làng tên Bāhiya ở Bhārukaccha. Ông cũng được người đời gọi là Dārucīriya vì trước khi đắc quả A La Hán, ông đã mặc áo làm bằng vỏ cây. Dāru = cây; cīriya = vỏ cây. Dārucīriya = Người mặc vỏ cây.

 

Khi còn là người chưa tu, ông là một thương nhân. Ông đi buôn bằng thuyền. Ông đã bảy lần vượt sông Indus băng qua biển để đi buôn. Trong bảy lần đều thành công cả bảy. Đến lần thứ tám, trong khi đi đến thương cảng ở Suvaṇṇabhūmi, tàu ông bị đắm chìm giữa biển. Hàng hóa và của cải vàng bạc của ông đều chìm mất hết. Tất cả thương nhân trên tàu đều chết. May mắn cho ông là ông ôm được tấm ván. Sau bảy ngày đêm lênh đênh trên biển, chiến đấu với tử thần, ông đã tấp vào bờ biển Suppāraka với tấm ván. Khi đến bờ, ông không còn quần áo để che thân. Ông nhặt nhánh cây nhỏ và vỏ cây kết lại thành khố để che thân. Sau đó ông lên bờ và đi khất thực. Dân vùng biển Suppāraka thấy ông ăn mặc vỏ cây nên gọi ông là “người mặc vỏ cây” (Dārucīriya). Hiểu được hoàn cảnh của ông là người vừa thoát chết sau chuyến tàu chìm, dân chúng kẻ ít người nhiều, tùy theo phương tiện của mình đã cúng dường thức ăn, thức uống cho ông với sự tôn kính. Thấy ông không áo quần, dân vùng biển cúng dường áo quần và nhiều vật dụng đáng giá khác, nhưng ông từ chối. Ông chỉ nhận đủ số cần dùng. Nhờ vậy uy tín của ông càng lên cao. Ít lâu sau đó, dân vùng biển nghĩ rằng ông là một vị A La Hán. Sau cùng, chính ông cũng cho rằng ông là vị A La Hán hay là người đang đi trên đường A La Hán.

 

Lúc bấy giờ có một thiên nhân (devatā), trước kia là bà con ruột thịt với Bāhiya, trong một đêm khuya, thiên nhân này hiện ra và nói cho Bāhiya biết rằng, ông không phải là A La Hán, cũng không phải là người đang đi trên đường A La Hán. Nếu muốn đi trên con đường A La Hántrở thành vị A La Hán, thiên nhân này cho biết là ông nên mau mau đến Kỳ Viên tinh xáXá Vệ (Sāvatthi) để gặp ngay đức Phật. Phật sẽ giảng cho ông biết làm thế nào để đi trên đường A La Hán, làm thế nào để có lợi lạc cho chính ông trên đường tâm linh.

 

Nghe vậy, ông Bāhiya liền quyết tâm đi đến Xá Vệ (Sāvatthi) ngay. Mặc dù bờ biển Suppāraka cách xa Xá Vệ khoảng 120 do tuần (1 do tuần, yojana = leagues) bằng 4 km. 120 x 4km = 480 km), với quyết tâm mãnh liệt, ông Bāhiya đi suốt đêm. Ông hy vọng gặp Phật để chính tai ông nghe Phật giảng cách làm sao để đạt được hạnh phúc an lạc lâu dài.

 

Sáng sớm hôm sau ông đã đến Kỳ Viên tinh xá. Ông rất đổi vui mừng, tin tưởng sẽ gặp đức Phật để thưa hỏi. Nhưng ông được cho biếtđức Phật đã đi khất thực rồi. Với tâm trạng nôn nóng, ông liền bươn bả đi nhanh theo hướng đức Phật đang đi khất thực. Ông mong rằng khi gặp Phật, ông sẽ nghe Phật chỉ dạy cách tu. Khi thấy Phật đang chậm rãi đi, ông liền nhanh chân bước đến trước mặt Phật, quì xuống giữa đường, đảnh lễ sát dưới chân Phật, rồi ôn tồn thỉnh cầu Phật dạy pháp để ông được giải thoát.

 

Ông chắp tay thành tâm bạch:

-  Bạch Thế Tôn, cầu xin Thế Tôn hãy thuyết pháp cho con. Thiện Thệ hãy thuyết pháp cho con, nhờ vậy con có thể được hạnh phúc an lạc lâu dài.

 

Đức Phật chậm rãi đáp:

-  Không phải thời, này Bāhiya, ta đang đi khất thực.

 

Ông Bāhiya tiếp tục cầu xin nữa.

-  Thật khó biết, bạch Thế Tôn, là chướng ngại cho mạng sống của Thế Tôn hay chướng ngại cho mạng sống của con. Bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy thuyết pháp cho con. Thiện Thệ hãy thuyết pháp cho con, nhờ vậy con có thể được hạnh phúc an lạc lâu dài.

 

Lần thứ hai đức Phật cũng từ chối. Đức Phật cho biết là không phải thời để đức Phật giảng. Không chán nản, ông Bāhiya khẩn cầu lần thứ ba:

-  Thật khó biết, bạch Thế Tôn, là chướng ngại cho mạng sống của Thế Tôn hay chướng ngại cho mạng sống của con. Bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy thuyết pháp cho con. Thiện Thệ hãy thuyết pháp cho con, nhờ vậy con có thể được hạnh phúc an lạc lâu dài.

 

Nhìn thái độ thành khẩn và lòng nhiệt tâm cầu pháp của Bāhiya, thấy đã đến lúc cần nói bài pháp thích hợp với tâm trạng đang mong đợi chờ nghe của ông Bāhiya, đức Phật liền chậm rãi nói những lời ngắn gọn. Ông Bāhiya chấp tay quì chú tâm lắng nghe lời Phật. Phật nói:

 

-  Vậy này Bāhiya, ông cần phải học tập như sau: “Trong cái thấy, chỉ là cái thấy; trong cái nghe, chỉ là cái nghe; trong cái thọ tưởng, ch là cái thọ tưởng; trong cái thức tri, ch là cái thức tri. Như vậy, này Bāhiya, ông cần phải học tập. Vì rằng, này Bāhiya, nếu với ông, trong cái thấy, chỉ là cái thấy; trong cái nghe, chỉ là cái nghe; trong cái thọ tưởng, chỉ là cái thọ tưởng; trong cái thức tri, chỉ là cái thức tri. Do vậy, này Bahiya, ông không là chỗ ấy. Vì rằng, này Bāhiya, ông không là đời này, không là đời sau, không là đời chặng giữa. Như vậy là đoạn tận khổ đau.

 

Kinh ghi tiếp: Nhờ lời thuyết pháp tóm tắt này của Thế Tôn, tâm của Bāhiya Dārucīriya được giải thoát khỏi các lậu hoặc.

 

Tức là khi nghe Phật giảng xong, ông đã đắc quả A La Hán. Đây là ông đã tức khắc nhận thức thấu đáo Chân lý. Trong Pāli, gọi trạng thái này là “khippābhiññānaṃ”. Tương đương tiếng Anh là “instantly comprehended the Truth”. Nói theo thuật ngữ Thiền Tông Trung Hoa, ông đã “đốn ngộ”.

 

Sau đó, đức Phật đi khất thực. Riêng ông Bāhiya từ giã Phật... Không lâu sau đó, một con bò con húc vào ông Bāhiya. Ông chết. Khi Phật đi khất thực xong, sau buổi ăn trưa, trên đường đi khất thực trở về cùng chung với nhiều Tỳ kheo, Phật thấy ông Bāhiya nằm chết. Phật liền nói với các Tỳ kheo:

 

-  Này các Tỳ kheo hãy lấy thân xác Bāhiya Dārucīriya đặt lên trên cái chõng, đem đi hỏa thiêu, rồi xây tháp lên trên. Này các Tỳ kheo, một vị đồng Phạm hạnh với các Thầy đã qua đời!

 

Đồng Phạm hạnh, tức là cùng chung hạnh sống của bậc Thánh với các vị Tỳ kheo, đệ tử của Phật.

 

Kinh ghi tiếp: Sau khi các vị Tỳ kheo làm y theo lời Phật dạy xong, các ngài đến bạch Phật, yêu cầu Phật giải thích về trường hợp của ông Bāhiya.

 

Trước chư tăng, đức Phật công bố:

-  Này các Tỳ kheo, Hiền trí là Bāhiya Dārucīriya đã hành trì tùy pháp, đúng pháp và không có phiền nhiễu Ta với những tranh luận về pháp. Này các Tỳ kheo, Bahiya Dārucīriya đã nhập Niết Bàn.

Ý kiến bạn đọc
08 Tháng Mười Một 202210:57 SA
Khách
Cảm ơn ông bà cô bác anh chị em đã đăng bài của thầy nói về ông bahiya trong kinh Phật lên.
Dưới đây con xin trình bầy theo cái thấy của con trên con đường học đạo về bài kinh này.

Kinh Bahiya

Trong cái thấy chỉ là cái thấy, trong cái nghe chỉ là cái nghe, trong cái thọ tưởng chỉ là cái thọ tưởng, trong cái thức tri chỉ là cái thức tri. Như vậy, này bahiya ông cần phải học tập ( nghĩa là tập nhìn nghe thấy hiểu, biết như thật. ). Vì rằng này bahiya, nếu với ông trong cái thấy chỉ là cái thấy , trong cái nghe chỉ là cái nghe, trong cái thọ tưởng chỉ là cái thọ tưởng, trong cái thức tri chỉ là cái thức tri. Do vậy, này bahiya ông không là chỗ ấy ( nghĩa là ông biết như thật, ông không dính mắc vào nghe, thấy, thọ tưởng, tri thức thế gian).
Vì rằng này bahiya ông không là đời này, không là đời sau, không là đời chặn giữa - Theo con nghĩ là ngay cả tâm ông, ông cũng không dính mắc vào (buôn bỏ tâm ông luôn) Tâm ông bản thân đã là vô ngã, ông rơi vào trạng thái tịch diệt vô sanh và thấu hiểu thực tại - . Như vậy là đoạn tận khổ đau.

Con
Như quỳnh
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
69,256