Triệt Như - Suối Nguồn Hạnh Phúc - Bài 31
TIẾNG RỐNG SƯ TỬ
Chúng ta thử nhìn lại bối cảnh lịch sử Phật giáo thời xa xưa. Sự kiện rõ nét nhất là sự phân rẽ hai dòng lớn: Tiểu thừa và Đại thừa, mà vết rạn nứt đã bắt đầu từ sau khi Đức Phật nhập diệt 100 năm, tức là khoảng thế kỷ IV trước công nguyên. Đó là khi Trưởng lão bộ kết tập kinh điển lần thứ II năm 383 BCE, lý do trực tiếp là vì Thập sự phi pháp của nhóm Tăng trẻ Vajji. Bắt đầu từ đây Phật giáo phân ra hai bộ phái lớn:
- Theravāda / Trưởng lão bộ
- Mahāsaṁghika/ Đại chúng bộ.
Tiếp theo, lần lượt tách ra thành lập các bộ phái khác nữa.
ĐẠI CHÚNG BỘ
Từ 100 tới 200 năm sau Phật nhập diệt, phân ra thêm 8 bộ phái khác.
TRƯỞNG LÃO BỘ
Từ 200 tới 300 năm sau Phật nhập diệt, phân ra thêm 10 bộ phái khác.
Những con số này là trong sử liệu có ghi rõ tên bộ phái, người sáng lập và chủ trương. Trong thực tế, còn nhiều hơn nữa.
Chúng ta tìm hiểu tại sao có sự phân chia nhiều bộ phái như thế. Có thể có nhiều lý do:
- Đức Phật đã không chỉ định người lãnh đạo tăng đoàn trước khi ngài nhập diệt.
- Không có Giáo đoàn trung ương thống nhất, có thể vì lãnh thổ Ấn Độ quá rộng lớn.
- Phật và những đại đệ tử của Phật lần lượt qua đời.
- Địa lý và khí hậu từng đị̣a phương khác nhau đưa đến sự chứng ngộ tâm linh khác nhau.
- Tâm lý khác nhau giữa thế hệ già và thế hệ trẻ.
- Hoàn cảnh lịch sử, nhà cầm quyền đàn áp.
Đây có thể nói là thời kỳ phức tạp nhất trong lịch sử Phật giáo, có quá nhiều bộ phái thi nhau xuất hiện, đưa ra nhiều quan điểm khác nhau khi giảng giải Kinh, Luật, và Luận, có khi đồng quan điểm về vấn đề này, vấn đề khác thì không đồng ý. Tuy nhiên nhìn kỹ thì hầu hết các bộ phái đều lấy những giáo lý căn bản của Đức Phật làm nền tảng cho bộ phái của mình. Thí dụ những chủ đề sau:
- Tam pháp ấn: vô thường, khổ, vô ngã.
- Ngũ uẩn: sắc, thọ, tưởng, hành, thức.
- Luân hồi, Nghiệp báo, Tương quan nhân quả.
- Tam học: giới định huệ.
- Tam tuệ: văn tư tu.
- Tứ Diệu Đế.
- Tánh Không.
- Tánh Huyễn.
- Tánh chân như.
- Niết bàn.
Vì thế, những vấn đề tranh luận trong những bộ Luận thư hay giữa các bộ phái hầu hết là chung quanh những vấn đề phụ, thí dụ:
- Phật, Bồ tát, A la hán là người bình thường hay phi thường với những quyền năng siêu nhiên.
- Kinh, hay Luật hay Luận, tạng nào là quan trọng.
- Có thân trung ấm hay không, sau khi chết và trước khi đi tái sinh.
- Cái gì đi tái sinh.
- Chứng ngộ là từ từ hay tức khắc.
- Quá khứ, hiện tại, tương lai là thực tại hiện hữu hay là không có thực.
Nhìn chung, chúng ta có thể hiểu lý luận của những bộ phái khác nhau là vì đứng trên hai chỗ khác khau: tục đế bát nhã hay chân đế bát nhã. Nên cái thấy có khi chưa rốt ráo nếu còn trong thực tế của hiện tượng.
Đối với các nhà khảo cứu Phật học xưa nay, thường ca ngợi thời kỳ phân liệt bộ phái này là thời đại huy hoàng nhất của Phật giáo. Như là vườn hoa có trăm ngàn đóa hoa hương sắc khác nhau, đua nhau nở rộ.
Ngoài 14 bộ Luận thư được kết tập chính thức, các vị Luận sư danh tiếng còn sáng tác nhiều bộ Luận thư khác nữa. Đồng thời nhiều bộ Kinh do các vị Tổ Đại thừa sáng tác cũng xuất hiện lần lượt trong khoảng thời gian 500 năm của thời kỳ huy hoàng của các bộ phái (tạm xem như khoảng 300 năm trước công nguyên tới khoảng 200 năm sau công nguyên). Các bộ kinh Đại thừa này thực sự không biết tác giả là ai, cũng không ai xác nhận được là có vào thời gian nào. Như các bộ kinh nổi tiếng: hệ thống kinh Ma ha Bát nhã Ba la mật đa, kinh Hoa Nghiêm, kinh Kim Cang, kinh Pháp Hoa, kinh Thắng Man, kinh Viên giác, kinh Thủ lăng nghiêm...
Nhìn chung, ta có thể nói đây là thời đại nổi bật nhất của Phật giáo, với những thành quả quan trọng:
- Nhờ sự nhiệt tâm bảo trợ của hai vị vua Ấn Độ: vua Aśoka (thế kỷ III BCE) và vua Kaṇiska (thế kỷ II CE), hai bộ Tam Tạng kinh điển bằng tiếng Pāli và Sanskrit đã hoàn thành.
- Bắt đầu phổ biến Phật giáo khắp Ấn độ.
- Hình thành Nam tông và Bắc tông, truyền bá Phật giáo ra ngoài xứ Ấn độ.
- Các vị Luận sư hệ phái Theravāda thi nhau sáng tác các bộ Luận thư chú giải Kinh và Luật của Đức Phật.
- Các vị Tổ Đại thừa sáng tác nhiều bộ kinh theo quan điểm giáo lý liễu nghĩa.
Giữa kho tàng kinh điển đồ sộ đó của Phật giáo, giữa bối cảnh sinh hoạt khác nhau của hàng mấy chục bộ phái, sử liệu có ghi tên hay không ghi, một tông phái mới, xuất hiện, bằng tiếng rống sư tử vang lừng, của một khuôn mặt vĩ đại: Bodhidharma, người khai sáng Thiền tông và cũng khai sáng võ học Thiếu lâm tại Trung Hoa, đầu thế kỷ VI CE.
Tiếng rống của sư tử này làm rung chuyển “cánh rừng ngôn ngữ” Phật học, khi ngài Bodhidharma giương cao lá cờ:
“Bất lập văn tự
Giáo ngoại biệt truyền,
Trực chỉ nhân tâm,
Kiến tánh thành Phật”.
Ngôn ngữ là qui ước của thế gian. Ngôn ngữ không phải là chân lý bất biến.
Chỗ “hoàn toàn tĩnh lặng, rỗng không, trong sáng”, chỗ “Atakkāvacara” không có ngôn ngữ hay lý luận. Tổ Bodhidharma đã thức tỉnh những người dấn thân theo chân đức Phật, mau ra khỏi “cánh rừng ngôn ngữ” của giáo lý, trực nhận bản tâm, tức là thấy tánh. Như thế, Tổ đã khai sáng chủ trương “đốn ngộ” của Thiền tông Trung Hoa.
Trong phạm vi bài viết này không kể lại những hành trạng của ngài Bodhidharma, chúng ta chỉ chọn vài sự kiện để hiển thị chủ trương này của Thiền tông, hay về sau còn gọi là Tổ sư Thiền, hay Thiền Tông Trung Hoa, mà sơ tổ là ngài Bodhidharma.
1- Có thể bắt đầu Thiền tông Ấn Độ là từ Đức Phật Thích Ca, qua sự tích Niêm Hoa Vi Tiếu, sự tích này chỉ được ghi trong sử Thiền tông mà thôi. Khi Đức Phật giơ cành hoa lên trong pháp hội ở núi Linh Thứu mà ngài hoàn toàn im lặng. Hội chúng cũng im lặng, ngơ ngác. Chỉ có ngài Mahā Kassapa mỉm cười, im lặng. Đức Phật bấy giờ bảo ngài Mahā Kassapa:
- “Ta có chánh pháp nhãn tạng, niết bàn diệu tâm, thật tướng vô tướng, nay trao cho Mahā Kassapa.”
Mình thấy Đức Phật có truyền trao cái gì cho ngài Mahā Kassapa đâu? Đó là Đức Phật ấn chứng ngài Mahā Kassapa đã an trú trong tâm như, hay tâm niết bàn, hay tâm vô tướng, hay chân tâm...giống như Đức Phật vậy. Có thể do sự kiện này mà về sau Thiền tông Ấn Độ tôn ngài Mahā Kassapa làm Tổ đời thứ nhất. Từ đó, sự truyền thừa kế tiếp cho tới Tổ thứ 28 là ngài Bodhidharma.
2- Vâng lời chỉ giáo của Tổ thứ 27 là Prajñādhāra (có vài học giả nêu nghi vấn: đây là một vị Thiền sư ni), ngài Bodhidharma từ quê hương ở miền nam Ắn, đi thuyền qua miền nam Trung Hoa vào năm 520 CE và được yết kiến vua Lương Võ Đế. Những lời đối đáp sau đây cũng biểu lộ cái thấy rốt ráo của Tổ.
Là một người phụng sự đạo Phật, Lương Vũ Đế đã cho xây trong nước mình nhiều chùa chiền, bảo tháp.
Vũ Đế hỏi nhà sư Ấn Độ: "Trẫm từ lên ngôi đến nay, xây chùa, chép kinh, độ tăng không biết bao nhiêu mà kể. Vậy có công đức gì không?"
Đạt Ma đáp: "Không có công đức."
- "Tại sao không công đức?"
- "Bởi vì những việc vua làm là nhân "hữu lậu", chỉ có những quả nhỏ trong vòng nhân thiên, như ảnh tùy hình, tuy có nhưng không phải thật."
- "Vậy công đức chân thật là gì?"
Sư đáp: "Trí phải được thanh tịnh hoàn toàn. Thể phải được trống không vắng lặng, như vậy mới là công đức, và công đức này không thể lấy việc thế gian (như xây chùa, chép kinh, độ tăng) mà cầu được."
Vua lại hỏi: "Nghĩa tối cao của thánh đế là gì?"
- "Một khi tỉnh rõ, thông suốt rồi thì không có gì là thánh."
- "Ai đang đối diện với trẫm đây?"
- "Tôi không biết."
Đó là những lời khai thị về yếu tính Phật pháp rất rõ ràng, nhưng Vũ Đế không lĩnh hội.
Qua những lời hỏi đáp này, chúng ta biết nhà vua còn cái thấy hạn hẹp, chấp trước của tục đế, thấy công việc mình đã làm là có thật, có phước báu, có phân biệt phàm, thánh v.v...nên không thể hiểu tới chỗ chân đế, vượt lên trên có không, phàm thánh, là cái thấy Trung đạo, chân lý rốt ráo mà Tổ muốn chỉ bày.
3- Phương cách Tổ Bodhidharma khai thị chớp nhoáng cho ngài Huệ Khả, “chỉ thẳng tâm người”, không giải thích nhiều lời.
Ngài Thần Quang hỏi:
- Pháp ấn của chư Phật con có thể được nghe chăng?
- Pháp ấn của chư Phật không phải từ người khác mà được.
- Tâm con chưa an, xin Thầy dạy pháp an tâm.
- Ngươi đem tâm ra đây, ta an cho.
- Con tìm tâm không thể được.
- Ta đã an tâm cho ngươi rồi.
Thần Quang nhân đây được khế ngộ. Ngài liền đổi tên Thần Quang là Huệ Khả.
4- Tổ dạy ngài Huệ Khả thực hành rõ ràng, cũng “chỉ thẳng tâm”:
“Ngoài dứt các duyên,
Trong không nghĩ tưởng,
Tâm như tường vách,
Mới vào được Đạo”.
5- Sau đây là cách Tổ trắc nghiệm chỗ thấy của đệ tử.
Sư có ý muốn hồi hương, trước khi về, gọi đệ tử trình bày sở đắc: "Giờ ta ra đi sắp tới, vậy mỗi đệ tử hãy nói cho ta nghe sở đắc của mình".
Đạo Phó bạch: "Theo chỗ thấy của tôi, muốn thấy đạo phải chẳng chấp văn tự, mà cũng chẳng lìa văn tự."
Sư đáp: "Ông được lớp da của tôi rồi."
Ni Tổng Trì nói: "Chỗ giải của tôi như cái mừng vui thấy nước Phật (tâm) bất động, thấy được một lần, sau không thấy lại nữa."
Sư nói: "Bà được phần thịt của tôi rồi."
Đạo Dục, một đệ tử khác, bạch: "Bốn đại vốn không, năm uẩn chẳng phải thật có, vậy chỗ thấy của tôi là không một pháp nào khả được."
Sư đáp: "Ông được bộ xương của tôi rồi."
Cuối cùng, đến phiên Huệ Khả. Huệ Khả lễ bái Sư rồi đứng ngay một chỗ, không bạch không nói gì cả. Sư bảo: "Ngươi đã được phần tuỷ của ta."
Rồi ngó Huệ Khả, Sư nói tiếp: "Xưa Như Lai trao 'Chánh pháp nhãn tạng' cho Bồ tát Ca Diếp, từ Ca Diếp chánh pháp được liên tục truyền đến ta. Ta nay trao lại cho ngươi; nhà ngươi khá nắm giữ, luôn với áo cà sa để làm vật tin. Mỗi thứ tiêu biểu cho một việc, ngươi nên khá biết."
Tiếp nối dòng kế thừa Tổ Đạt Ma là:
- Nhị Tổ: Huệ Khả
- Tam Tổ: Tăng Xán
- Tứ Tổ: Đạo Tín
- Ngũ Tổ: Hoằng Nhẫn
- Lục Tổ: Huệ Năng (638-713)
Các vị Tổ thứ hai, ba và tư không có nhiều sử liệu, chúng ta lướt qua. Vị Tổ thứ tư, ngài Hoằng Nhẫn giảng kinh Kim Cang, từ kinh này, ngài Huệ Năng đại ngộ, được truyền y bát kế thừa ngay trong đêm đó. Kinh Kim Cang giảng ba chủ đề thuộc chân lý cuối cùng: Không, Huyễn và Chân như. Như vậy, ngài Huệ Năng, xem như hàng thượng căn, đã đốn ngộ, Phật tánh của ngài kiến giải chỗ thấy biết rốt ráo:
Nào dè tánh mình vốn không sanh diệt,
Nào dè tánh mình vốn thanh tịnh trong sạch,
Nào dè tánh mình vốn chứa đầy đủ muôn Pháp,
Nào dè tánh mình vốn không dao động,
Nào dè tánh mình vốn sinh ra muôn Pháp.
Từ đó, ngài Huệ Năng trở thành một vị Tổ nổi bật của dòng Tổ sư Thiền của Trung Hoa, với những vị đệ tử cũng nổi tiếng sau này: ngài Hành Tư, ngài Hoài Nhượng và ngài Thần Hội. Ngoài ra, theo sử sách có tất cả 43 vị đắc pháp nơi ngài Huệ Năng.
- Phái Nam-Nhạc của Hoài-Nhượng Thiền-Sư, có đệ-tử là Mã-Tổ chủ hóa ở vùng Giang-Tây, sau phái Nam-Nhạc lập ra hai dòng Lâm-Tế và Quy-Ngưỡng.
- Phái Thanh-Nguyên của Hành-Tư Thiền-Sư, có đệ-tử là Thạch-Đầu, có tiếng là “Thạch-Đầu đường trơn”, chủ hóa ở Hồ-Nam; sau phái Thanh-Nguyên lập ra ba dòng Vân-Môn, Pháp-Nhãn, và Tào-Động.
- Phái Hà-Trạch của Thần-Hội truyền đến hết đời Tông-Mật Thiền-Sư, thì thất truyền.
Còn lại năm dòng, cũng gọi là năm nhà, truyền mãi xuống về sau; cội nguồn từ Lục-Tổ truyền xuống năm dòng, mỗi dòng có tác phong riêng để tiếp dẫn hậu học, nhưng không ngoài mục đích của Thiền-Tông là minh-tâm kiến-tánh, và đều lấy tích Niêm Hoa Vi Tiếu của Phật Thích-Ca làm kim chỉ nam.
Kết luận, Thiền Tông Trung Hoa được xem như bắt đầu từ Sơ Tổ là ngài Bodhidharma, người Ấn Độ, qua tiếng rống sư tử, thức tỉnh con người trở lại bản tâm, nhận ra bản tánh, trống rỗng, tịch diệt, chiếu sáng của mỗi người. Ngài Huệ Năng do tiếp nối con đường của Tổ Bodhidharma, nên cũng là một vị Tổ sáng chói của Thiền Tông. Do vậy, Tổ sư Thiền cũng gọi là Thiền tông đốn ngộ, hay Như Lai thanh tịnh Thiền, hay Tối thượng thừa Thiền.
Thiền viện , 16- 10- 2021
TN
"xây chùa, chép kinh ?"
"Không công không đức."
"Thánh đế tối cao ?"
"Rỗng không vô thánh."
"Ai đối diện đây?"
"Không biết không Ai. "
Tiếng gầm sư tử.
Ngữ ngôn mịt mù.
Có Ai đó nghe ?