HỘI THIỀN TÁNH KHÔNG TRUNG ƯƠNG

Giới Thiệu 2 Quyển Sách Mới Của Thiền Sư Thích Thông Triệt

18 Tháng Bảy 201412:00 SA(Xem: 22993)

Chủ Bút Tuần San ĐẸP

Giới thiệu 2 quyển sách mới của Thiền sư Thích Thông Triệt
--------------------

 1. LUẬN GIẢNG VẤN ĐÁP VỀ: TIẾN TRÌNH TU CHỨNG

THÀNH ĐẠO CỦA ĐỨC PHẬT

 Là người Phật tử ai cũng biết sơ lược về lịch sửcuộc đời tu tập của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, người sáng lập ra đạo Phật. Thí dụ như: Trước khi thành vị Phật lịch sử thì Ngài là Thái Tử Siddhattha, họ Gotama theo hệ Pāli, còn hệ Sanskrit thì viết là Siddhārtha Gautama. Cha của Ngài là vua Tịnh Phạn, Mẹ là hoàng hậu Ma-Da mất sớm, vợ là công chúa Da-Du-Đà-La, con là La-Hầu-La. Đến khi thành đạo, Ngài được gọi là Phật Cồ Đàm (Gotama Buddha). Đệ tử của Ngài gọi Ngài là "đức Thế Tôn" hay "đức Phật". Người khác đạo gọi Ngài là Tôn Giả Cù Đàm hay Sa Môn Cù Đàm. Khi đi du hoá khắp nơi, thì Ngài được gọi là Thích Ca Mâu Ni (Skt: Sākyamuni, P:Sakkamuni) có nghĩa là "Vị Thánh Yên Lặng bộ tộc Thích Ca". Còn Ngài thì tự xưng là "Như Lai" (Tathāgata) là "Người đã đến như vậy" hay "Người đã đạt được Chân lý tối hậu bằng Tâm Như" tức "Tâm Tathā". 

 sach1-content Trong lịch sử nhân loại, đức Thích Ca Mâu Ni là vị Chánh Đẳng Giác. Đạo của Ngài gọi là đạo "Giác Ngộ". Đây là một trong những tôn giáo với hệ thống triết học và khoa học tâm linh lớn trên thế giới. Khoa học tâm linh này đã tô đậm nền văn hoá nghệ thuật, kiến trúc, là nền tảng văn họctư tưởng cho các dân tộc Ấn Độ, Tích Lan, Thái Lan, Miến Điện, Campuchia, Ai Lao, Trung Hoa, Nhật Bản, Triều Tiên, Mông Cổ, Tây TạngViệt Nam cùng các dân tộc Tây phương khác qua 3 tạng Kinh, Luật, Luận bằng hai loại văn Pãli và Sanskrit. Văn bản Pãli thuộc Phật Giáo Nguyên Thuỷ, hệ Nam Tông. Văn bản Sanskrit, thuộc Phật Giáo Phát Triển, hệ Bắc Tông.

 Nhắc lại đạo Phật là đạo "Giác Ngộ", đạo "trí tuệ", cho nên người khám phá ra đạo này phải là người đã giác ngộ, chứng được trạng thái định cao nhất của thắng trí, đó là Chân Như trí, là người có Toàn Trí thông suốt nguồn cội thực tướng hiện tượng thế gian, thấu rõ đầu mối gây ra phiền não, khổ đau, tái sinh triền miên của con người. Người Toàn Trí không những biết được đầu mối gây đau khổ mà còn tìm ra được những phương thức chấm dứt mọi thứ đau khổ đó. Tại sao vậy? Đó chẳng qua là Ngài đã tu tập tự chứng trên thân và tâm của mình về sự chấm dứt lậu hoặc, chấm dứt tái sinh đồng thời khám phá ra Con Đường (đạo / path) tức phương hướng đi đến giải thoát tối hậu gọi là tự giác.

 Bằng năng lực siêu phàm của Phật Nhãn, Ngài biết tất cả tánh khí, căn cơ cao thấp và khuynh hướng cùng tư tưởng chúng sinh, nên khi thiết lập phương thức giáo hoá, Ngài khiến cho tất cả người khi nghe giảng đều lãnh hội rõ ràng về những điều Ngài dạy. Phương thức này gọi là "đối cơ" thuyết pháp, nghĩa là tùy theo khả năng của cá nhân mà hướng dẫn tu tập. Cả hai đức tính tự giácgiác tha của Ngài hoàn toàn tròn đủ, cho nên Ngài được gọi là Phật.

 Để trở thành một bậc Đại Giác như vậy? Đường hướng tu tập của Ngài được sử liệu ghi lại không phải một sớm một chiều mà đạt được. Ngài đã phải trải qua 6 năm tu tập sai lầm suýt chết... Lúc đầu theo học Thiền Yoga, không thành công. Ngài theo năm anh em Kiều Trần Như tu khổ hạnh, cũng thất bại. Sau đó Ngài tự tìm pháp tu riêng của mình. Đó là thiền Định theo pháp Thở.

 Muốn tìm hiểu thấu đáo hơn về Con Đường Tu ChứngThành Đạo của Đức Phật, chúng ta cần giở lại kinh điển. Kinh điển là những lời Phật dạy đã được trùng tu lại nhiều lần. Những lần đầu khi trùng tu các bậc Trưởng Lão chỉ tụng đọc. Những lần sau mới ghi chép thành văn, gồm Kinh, Luật, Luận. Gọi chung là Tam Tạng có 2 hệ:

 - Hệ Pāli do Nam Tông hay Nguyên Thuỷ biên soạn. Kinh Tạng Nikāya gồm 5 bộ; Luật Tạng Pãli gồm 5 bộ; Luận Tạng Pāli có 5 bộ.

 - Hệ Sanskrit do Bắc Tông hay Phát Triển biên soạn. Kinh Tạng A-Hàm (Āgama) 5 bộ; Luật Tạng Sanskrit 5 bộ; Luận Tạng Sanskrit 7 bộ.

 Và cũng từ hai bộ Tam Tạng trên, các bậc Học Giả, các vị Cao Tăng thời xưa hay thời nay đã dịch hay viết lại tiểu sử Đức Phật qua nhiều thứ tiếng trên thế giới, nhưng đúc kết ngắn gọn những điều chủ yếu quan trọng về cuộc đời tu tập vô cùng gian khổ của Ngài để tự khích lệ mình trên con đường tu tập, đồng thời mang khoa học não bộ ra để dẫn giải chứng minh những lời giảng dạy trong kinh Nikãya hầu giúp cho những người trẻ có đầu óc khoa học ở thế kỷ 21 này nhận rõ ra rằng Thiền Phật Giáo không có gì bí hiểm hay huyền bí. Đây là một phát minh mới mẻ do một Thiền sư tu chứng qua những kỳ chụp hình não bộ của chính mình viết lại.

 Đó là một trong nhiều lý do mà người viết kính giới thiệu đến các Phật tử, thiền sinh hay những độc giả muốn tìm hiểu về Phật Giáo hai quyển sách sắp phát hành của Thiền Sư Thích Thông Triệt. Hai quyển sách này không nhằm mục đích kể lại chuyện người xưa, mà mục đíchnhận định và luận giảng về đường lối tu tập của người xưa để đáp ứng nhu cầu tìm hiểu của mọi người về: Quá trình tu hành của Đức Phật đã trải qua những gian truân như thế nào? Phương thức dụng công đầu tiên của Ngài ra sao? Vì sao Ngài phải bỏ phương thức tu Thiền của hệ thống Yoga và bỏ luôn phương pháp tu Khổ hạnh để tìm ra phương thức mới giúp Ngài đạt được Giác ngộ tối hậu? Tiến trình các phương thức đó như thế nào, diễn tiến ra sao? Vì sao Ngài xem ý thức, suy nghĩtrí năngchướng ngại của tu Thiền? Mấu chốt nào đưa Ngài đến Giác ngộ tối hậu? Nền tảng sự thành đạo của Đức Phật đặt vào đâu? Giá trị sự thành đạo của Đức Phật như thế nào... v.v.. Quý độc giả sẽ tìm thấy câu giải đáp trong quyển sách thứ nhất với tựa đề "Luận Giảng Vấn Đáp Về: TIẾN TRÌNH TU CHỨNGTHÀNH ĐẠO CỦA ĐỨC PHẬT".

 Trong "Lời Tựa" ở những trang đầu quyển sách, Thiền sư Thông Triệt đã ghi lại như sau:

 "Tiến Trình Tu Chứng Của Đức Phật" vốn là quyển sách đã được chúng tôi phát hành vào năm 1999 và tái bản vào năm 2007 trong bộ sách gồm 4 tập. Bộ sách này được chúng tôi xếp với đề tài là: "Tìm Hiểu Và Ứng Dụng Thiền Phật Giáo".  Nay chúng tôi tách rời quyển sách "Tiến Trình Tu Chứng Của Đức Phật" ra thành một quyển sách riêng biệt, mang tựa đề "Luận Giảng Vấn Đáp Về Tiến Trình Tu ChứngThành Đạo Của Đức Phật".

 Từ năm 2007 đến năm 2010, sau những kỳ chụp hình não bộ tại trường Đại học Tubingen, Đức quốc, và dự Hội Nghị Não Bộ OHBM (Organization for Human Brain Mapping) lần thứ 16 tại Barcelona, Tây Ban Nha, lần thứ 17 tại Quebec, Canada, những câu hỏi mà chúng tôi thắc mắc từ năm 1982 được giải đáp, đó là: Tâm nhu nhuyến, thuần tịnh, không cấu nhiểm, dễ sai khiến, ngoài lời, chính là chức năng của vùng Precuneus. Tâm này tương xứng với thuật ngữ Tâm Như.

 Từ sau đó, những câu nói mà Phật đã mô tả: Tathāgata tức Như Lai, cái Vô Sanh, Thượng Trí, Niết Bàn, hay Tự Tánh Thanh Tịnh cũng chính là chức năng của vùng Precuneus. Vùng Precuneus nằm ở thuỳ đỉnh thuộc Vỏ Não. Nó được các nhà não học xếp là cái lõi của não bộ.

 Để làm sáng tỏ bộ sách "Tiến Trình Tu Chứng Của Đức Phật", hôm nay, chúng tôi biên sọan, giảng giải và bổ túc "Tiến Trình Thành Đạo Của Đức Phật". Nhờ sự đóng góp công sức và trợ duyên đặc biệt của tất cả Thiền sinh tại Pháp, Đức, Canada, Thuỵ Sũ và các tiểu bang trên đất Mỹ nên quyển sách mới này lấy tên lại là: "Luận Giảng Vấn Đáp Về Tiến Trình Tu Chứng Thành Đạo Của Đức Phật" đã đủ duyên Ra Mắt bạn đọc.

 Như vậy, mục tiêu biên soạn cuốn sách này, chúng tôi nhắm 4 điểm:

 1. Luận giảng về những mấu chốt đưa đến tiến trình tu chứng của Đức Phật qua 4 tầng Định.

 2. Luận giảng về những điểm then chốt đưa đến sự thành đạo của Đức Phật.

 3. Đối chiếu với những kinh điểnĐức Phật đã giảng dạy đệ tử để đạt được 4 tiến trình định và giải thoát tối hậu như Phật đã thành tựu.

 4. Mở ra phương hướng tu tập cho thiền sinh bằng ngôn ngữ hiện nay.

 Mong rằng tập sách nhỏ này sẽ là đề tài hữu ích cho những vị muốn đi sâu vào Thiền Phật Giáo qua hệ kinh Nguyên Thủy." 

 

2. LUẬN GIẢNG VẤN ĐÁP VẾ THIỀN VÀ KIẾN THỨC THỜI ĐẠI

  "Trong đạo Phật, Thiền là pháp tu khó thực hành bậc nhất. Muốn thành tựu từng mục tiêu trong Thiền không phải là dễ. Thí dụ như trên mặt tâm: Ta không lo âu, không nổi sân, không bực bội, không đố kỵ, quên lỗi người, thấy lỗi mình, không khen mình, không chê người. Trên mặt thân: Ta điều chỉnh bệnh tâm thể như cao máu, mất ngủ kinh niên... Trên mặt tuệ trí: Ta khai triển được trí tuệ tâm linh và làm mờ đi quán tính suy luận của trí năng. Muốn hoàn thành những mục tiêu đó, Thiền đòi hỏi người thực hành phải hội đủ những điều kiện cần thiết.sach2-content

 Trước hết, ta cần sáng suốt để nhận ra Thiền là dụng cụ có khả năng chuyển đổi nhận thức, chuyển hoá nội tâm, làm cho phiền não ngày một nhẹ đi. Rồi bằng những kỹ thuật thực hành, nó có khả năng tạo ra sự hài hoà trong ta và cân bằng được thân-tâm; giúp ta chuyển hoá tâm bất an thành tâm an, tâm mê thành tâm tỉnh, tâm xao lãng thành tâm thuần nhất... Kỹ thuật thực hành cũng giúp ta khai triển năng lực tâm linh từ bên trong cơ chế tánh giác.

 Muốn có những kinh nghiệm trên ta cần thực hành theo những qui định của Thiền. Đây là điều khó thứ nhất mà ta cần vượt qua để hoàn thành mục tiêu.

 Một điểm khác là cư sĩ, ta nên nhận ra Thiền là nhu cầu thiết thực cho sinh hoạt tâm linh để hỗ trợ cuộc sống thế tục. Thế nào là hỗ trợ cuộc sống thế tục? Ai cũng biết rằng trong cuộc sống hằng ngày ta phải đối đầu nhiều vấn đề phức tạp khó xử, khó giải quyết, ta cần sáng suốt, tỉnh táo, linh hoạt, ứng phó kịp thời trước các tình huống mà không ra ngoài khuôn khổ đạo đức và nhân cách. Ngoài ra, ta cũng cần an lạc, hài hoà, có cuộc sống hạnh phúc chân thậtlâu dài, chứ không phải an lạc tạm bợ, giả tạo nhất thời. Những điều kiện này vốn nằm trong các phương thức thực hành của Thiền Quán, Thiền Chỉ, Thiền ĐịnhThiền Huệ.

 Thông qua Thiền Quán, ta sẽ nhận ra chân tánh hiện tượng mà từ lâu ta đã bị những thứ tri kiến truyền thống thế gian che khuất. Qua đó, tâm ta sẽ dần dần chuyển hoá, có nhận thức mới về hiện tượng thế gian và trở nên an tịnh trầm lặng.

 Ta biết sống, biết suy nghĩ và biết làm việc theo tinh thần từ bi, phục vụ nhân sinh dưới ánh sáng trí tuệ giác ngộ. Nhờ vậy, mà ta không bị sa ngã bởi rượu chè, hút xách xì ke, ma tuý, dâm ô trụy lạc. Ta chỉnh đốn lại tác phong đạo đức. Nhân cách của ta không còn bị bệ rạc. Đến khi tâm thật yên lặng, ta sẽ có kinh nghiệm "cái biết không lời rõ ràng và đồng bộ". Cái biết này chính là cơ sở của tâm định vững chắc. Nó cũng là cơ sở của điều kiện phát huy trí tuệ tâm linh và là nền tảng của nguyên lý hài hoà giữa thân và tâm của ta. Thân khoẻ mạnh, tâm an lạc, tuệ trí bừng sáng đều dựa trên nó. Tâm cá nhân được hài hoà cùng môi trường chung quanh cũng dựa trên nó. Phiền não dần dần bị loại ra khỏi tâm cũng dựa trên nó. Phật gọi trạng thái này là "sati sampajanna" tức "biết rõ ràng và đầy đủ" hay là "chánh niệm tỉnh giác".

 Với tu sĩ, tuy không đặt trọng tâm nhắm đến thành Phật, thành A-La-Hán hay thành Bồ Tát như những quan điểm cổ thời, song ta nhận ra Thiền là nhu cầu tâm linh; chính nó có khả năng giúp ta kinh nghiệm chuyển đổi nhận thức, thoát khổ, giác ngộ, và giải thoát ngay trong đời này.

 Muốn có kinh nghiệm tâm linh, ta phải thực hành theo những qui định trong Thiền. Vì thông qua những kỹ thuật thực hành, ta có khả năng làm cho quán tính suy luận của trí năng ngưng hoạt động để nhường chỗ lại cho tánh giác có mặt trong sinh hoạt hàng ngày. Ta cũng có khả năng khai triển tiềm năng giác ngộ, tức Phật Tánh bằng những phương thức thực hành cao hơn của Thiền. Và nếu thực hành cao hơn nữa, ta sẽ có kinh nghiệm nhân chứng. Tóm lại, Thiền khó tu chỉ vì nó đòi hỏi nhiều điều kiện cần thiết mà người thực hành cần phải có.

 Trên nguyên tắc, dù thực hành Thiền theo hệ thống nào (Thiền Tông, Thiền Nguyên Thủy hay Thiền Phát Triển) người thực hành cũng phải trải qua từng giai đoạn dụng công. Thực hành từ dễ đến khó. Nói cách khác là thực hành từ pháp thấp đến pháp cao, hoặc còn gọi theo truyền thống là từ "tục đế" đến "chân đế". 

 Ngày xưa, Đức Phật cũng đã phải trải qua từng giai đoạn dụng công. Từ Sơ Thiền đến Tứ Thiền, hay từ từng định thấp đến định cao mới đạt được Chánh đẳng giác. Khi thiết lập phương hướng giáo hoá, Ngài cũng chỉ dẫn cách thực hành từ thấp tới cao. Phương thức này gọi là "tiệm giáo". Do đó đi theo Con đường của Phật, chúng ta cũng đi từng bước, hay áp dụng từng giai đoạn. Sự đi từng giai đoạn hay từng bước này gọi là "tiệm tu".

 Đoạn văn trên là lời Khai Thị của Thiền Sư trong các lớp Thiền Căn Bản của dòng Thiền Tánh Không được tổ chức tại nhiều nơi được ghi lại với tựa đề: "Nói Chuyện Với Tân Thiền Sinh" đăng trong quyển "Tìm Hiểu Và Ứng Dụng Thiền Phật Giáo" của Thiền Sư Thông Triệt phát hành năm 2005 .

 Trở lại phần giới thiệu tác phẩm mới. Năm 2014, Thiền Sư Thông Triệt sắp Ra Mắt bạn đọc hai quyển sách. Quyển thứ nhất đã giới thiệu ở trên, còn quyển thứ hai có tựa đề là: "Luận Giảng Vấn Đáp Về Thiền Và Kiến Thức Thời Đại". Nội dung quyển sách này đặc biệt nhấn mạnh về quan niệm mới trong sự thực hành Thiền. Giới thiệu thêm một số kiến thức căn bản về Bộ Não của con người. Trong đó có hệ thống thần kinh và các Tuyến Nội Tiết cùng các chất sinh hoá học có lợi hay có hại cho cơ thể con người. Vai trò của vùng Precuneus trong tiến trình Ngộ đạo. Hồi đáp sinh học trong Thiền và Cơ sở khoa học của sự thực hành Thiền để điều trị các bệnh tâm thể và tâm lý.

 Nội dung vừa nêu lên của quyển sách "Thiền Và Kiến Thức Thời Đại" cho thấy quan niệm mới về Thiền không phải chỉ nhắm vào việc thành Phật, thành Bồ Tátđời sau của người tu tập, mà Thiền có kết quả liền trong hiện tại để thân được khoẻ mạnh, tâm an vui, trí tuệ tâm linh phát huy... Khi thực hành Thiền đúng sẽ kích động vào Đối Giao Cảm Thần Kinh tiết ra những chất sinh hoá học giúp cho cơ thể phấn chấn hoạt bát vui vẻ... v.v.. Thiền sai sẽ tác động vào Giao Cảm Thần Kinh tiết ra những chất sinh hoá học không thuận lợi cho sức khoẻ của người hành thiền mà thuật ngữ trong Thiền thường hay đề cập tới là "tẩu hoả nhập ma".

 Những vấn đề này đã được giải thích rõ ràng trong quyển sách "Luận Giảng Vấn ĐápVề Thiền Và Kiến Thức Thời Đại" của một vị Thiền sưGiảng được, Thực Hành được và Chứng Minh được qua thời gian chuyên tu nhiều năm trước kia khi còn ở Việt Nam và sau này chụp hình não bộ nhiều lần kể từ năm 2007 đến 2010, và mới đây vào tháng 6 năm 2013. Đặc biệt không chỉ Thiền sư chụp hình Não bộ của riêng mình không thôi mà đệ tử của người là các thiền sinh cũng được đưa vào máy fMRI chụp Não bộ để có thể đưa đến kết luận Thiền chẳng qua là áp dụng những kỹ thuật thích hợp để huấn luyện các tế bào não vốn hay suy nghĩ triền miên được yên lặng. Khi các cơ chế ý căn, ý thức, trí năng yên lặng thì tánh giác có mặt. Nội dung quyển sách này cũng xác định vị trí của các cơ chế ý căn, ý thức, trí năng, tánh giác gồm các tánh thấy, nghe, xúc chạm và nhận thức nằm ở đâu trong bộ não của con người. Thật là một khám phá vô cùng lý thú mà người đọc không thể bỏ qua.

 

THIỀN SƯ THÍCH THÔNG TRIỆT

 Thiền sư Thích Thông Triệt thế danh là Lê Kế Tông sinh năm 1929 tại quận Long Thành, tỉnh Biên Hòa, Đồng Nai. Xuất gia với Đại Lão Hoà Thượng Thích Thanh Từ tại Thiền viện Chơn Không, Vũng Tàu, Việt Nam. Đầu năm 1982, thầy ngộ đạo nhận ra "vọng tưởng là sự nói thầm, không nói thầm thì kinh nghiệm Định". Từ đó thầy miên mật dụng công củng cố Định vững chắc.

suphu-content 

Thiền sư THÍCH THÔNG TRIỆT

 Thiền sư đến Hoa Kỳ năm 1992, bắt đầu hướng dẫn thiền từ năm 1995 tại các tiểu bang Oregon, California. Sau đó các Hội và đạo tràng Thiền Tánh Không (TTK) được lần lượt mở ra tại California, Texas, Florida, Washington cũng như tại Pháp, Đức, Canada, Thuỵ Sĩ và Úc Châu. Thiền sư là người sáng lập Dòng Thiền Tánh Không, chủ trương thực hành thiền theo Đức Phật Thích Ca, đồng thời dùng những phương tiện của Khoa học để soi sáng lời Phật dạy cũng như các kỹ thuật thực hành Thiền, hướng dẫn thiền sinh thực hành thẳng vào cơ chế Tánh Giác để từng bước kinh nghiệm thân khoẻ, tâm an và trí tuệ phát sáng.

 Thiền sư đã thành công trong công trình nghiên cứu Khoa học về Tác Động của thiền trên Não Bộ từ năm 2007-2013, dưới sự bảo trợ của trường Đại học Tubingen (Đức Quốc) và được trình bày tại Hội Nghị Khoa Học Não Bộ Thế Giới tổ chức tại Barcelona năm 2010 và tại Canada năm 2011.

 Sách đã xuất bản:

 - Đồ Thị Dẫn Giải (3 quyển, 1996)

 - Vào Cửa Không (1997)

 - Tiến Trình Tu Chứng Của Đức Phật (1999, tái bản 2007)

 - Tác Dụng Thiền Đối Với Đời Sống Con Người (2 quyển, 2000, 2005)

 - Thiền Luận Vấn Đáp (2007)

 - Thiền Dưới Ánh Sáng Khoa Học (2010)

 Quyển "Luận Giảng Vấn Đáp Về Tiến Trình Tu Chứng Và Sự Thành Đạo Của Đức Phật" và quyển"Luận Giảng Vấn Đáp Về Thiền Và Kiến Thức Thời Đại" sẽ được Hội Thiền Tánh Không địa phương tổ chức Ra Mắt độc giảthiền sinh tại Houston (TX), San Jose, Sacramento Orange County (CA), Washington D.C. vào tháng 8/2014. Sau đó sẽ Ra Mắt Sách ở Đức, Thụy Sĩ... v..v...

 Là cư dân và là thiền sinh của Thiền Tánh Không tại thành phố Houston Texas, người viết trân trọng giới thiệu đến quý độc giả hai tác phẩm giá trị trên của một vị Thiền sư, một vị Thầy khả kính, luôn nghĩ đến tiền đồ Phật giáo đã không quảng ngại thời giờ công sức, đã nhiều lần hy sinh sức khoẻ chụp hình bộ não để có tài liệu chứng minh rõ ràng những gì người soạn thảo in thành sách để lại cho hậu thế.

 Người viết tha thiết kính mời quý Phật tử, quý thiền sinh cùng quý đồng hương không phân biệt tôn giáo vui lòng dành chút thì giờ tham dự Buổi Tiệc Chay Ra Mắt Sáchvăn nghệ góp vui này trước bày tỏ lòng kính mến ân sư nếu là đệ tử, sau có cơ hội gặp mặt bạn bè thân hữu trong không khí nhẹ nhàng vui tươi cởi mở, buông xả những lo toan công ăn việc làm trong vài tiếng đồng hồ. Sự hiện diện đông đủ của quý vị chắc chắn là một khích lệ lớn lao đối với những thiền sinh đã bỏ công sức lo lắng cho chương trình Ra Mắt Sách suốt mấy tháng vừa qua.

TRẦN MINH TÂM

(Chủ Bút ĐẸP MAGAZINE)

 

Ý kiến bạn đọc
19 Tháng Hai 20187:11 SA
Khách
Cám ơn bài viết của Minh Tâm, xin hỏi tôi muốn mua các sách của sư thầy thì làm sao ạh
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
03 Tháng Mười Một 202311:52 SA(Xem: 1304)
Vì căn cơ chúng sanh khác nhau, nên Đức Phật phương tiện thuyết ngũ thừa để giúp chúng sanh dần đạt được giải thoát tối hậu. Ngũ thừa Phật giáo ví như 5 loại xe: Nhân thừa và Thiên thừa - Thanh-Văn thừa, Duyên-Giác thừa và Bồ-Tát thừa
31 Tháng Mười 20233:40 CH(Xem: 1183)
Und wenn wir diese Weisheit erlangt haben, haben wir keinen Bedarf mehr an einem Weg, an ein Dharma oder an eine Tür, die zur Weisheit öffnet, da wir schon drin sind, in unserem natürlichen Haus.
26 Tháng Mười 202312:55 CH(Xem: 1152)
VIDEO Phóng Sự Kỳ Đo Não Bộ Hòa thượng THÍCH THÔNG TRIỆT tại Đại học Tuebingen Đức Quốc năm 2013 - Giới thiệu: Quang Chiếu - Quay phim: Tuệ Nguyên - Edit: Chúc Hải
17 Tháng Mười 202311:23 SA(Xem: 1984)
Trong cái thấy, chỉ là cái thấy; trong cái nghe, chỉ là cái nghe; trong cái thọ tưởng, chỉ là cái thọ tưởng; trong cái thức tri, chỉ là cái thức tri.
10 Tháng Mười 20239:31 CH(Xem: 1458)
Stuttgart est une petite ville du sud de l'Allemagne. La retraite étant bilingue allemand-vietnamien, M. Tuong Bach, Mme Minh Tuyen et Minh Kien assuraient la traduction simultanée à tour de rôle. Il y avait environ 25 méditants, venant de nombreux endroits. De Paris, ils avaient voyagé en train. De Berlin, ils s’étaient regroupés pour venir en voiture. De Goslar, ils avaient fait environ 8 heures de route pour venir au monastère.
03 Tháng Mười 202310:36 SA(Xem: 1411)
Die Weisheit, über die ich hier sprechen will, ist ein Vipassanā. In diesem Artikel möchte ich die Grundlagen der Achtsamkeit in dem Nikāya-Sutra untersuchen. Heute klassifizieren viele Ehrwürdige das Satipatthana Sutra als ein Vipassanā, also eine Weisheit. Aus diesem Grund betrachte ich in diesem Artikel das Wort Vipassanā als eine Weisheit. Eine Weisheit für die Praxis.
26 Tháng Chín 20234:27 CH(Xem: 1871)
Trên bước đường tu theo Phật, “Hạnh buông xả” đóng một vai trò vô cùng quan trọng, là pháp tu cần thiết trong đời sống hằng ngày của người cư sĩ cũng như của người xuất gia tu hành giải thoát. Vậy thế nào là “Hạnh buông xả”?
19 Tháng Chín 20237:54 CH(Xem: 1899)
Bản thể của thế gian là trống rỗng, trống không, là như huyễn mà thôi. Tuệ trí này là năng lực khiến tâm xa rời dính mắc tất cả thế gian, bấy giờ mới an trú chánh niệm Như Vậy. Khi mình có tuệ trí thông suốt bản thể thế gian rồi thì không còn con đường, không cần pháp môn, không còn thấy có cổng nào nữa. Mình thực sự đang ở trong nhà của mình, tự thuở nào cho tới bây giờ.
12 Tháng Chín 202312:56 CH(Xem: 2121)
Bốn tầng Thiền qua đó đức Phật phát huy ba minh còn được gọi là bốn tầng Định, do đó mình hiểu Định có một vai trò quan trọng trong Thiền Phật giáo, xem như Định là cây cầu phải bước qua mới có thể khám phá tới khung trời bao la của trí tuệ bát nhã.
26 Tháng Tám 20232:36 CH(Xem: 2038)
Tuệ ở đây mình muốn nói tới Vipassanā, Tuệ Minh sát. Trong giới hạn bài này, mình bàn tới bài Kinh Niệm Xứ, trong kinh Nikāya. Mặc dù thông thường người ta vẫn nói “Quán Tứ niệm xứ”, trong bài kinh cũng nói “Quán thân” (Kāya-anupassanā) v.v…nhưng hiện nay các vị tôn đức xếp bài kinh Niệm xứ là Vipassanā, là thuộc Tuệ. Cho nên trong bài này, mình cũng tạm nói là Tuệ, tức là dùng tuệ thực hành...
20 Tháng Tám 202310:54 SA(Xem: 2390)
Nói tới Quán, có vài loại Quán hơi khác nhau, trong bài này chỉ xin nói tới loại Anupassanā, nghĩa thông thường là nhìn ngắm hiện tượng thế gian liên tục để nhận ra bản thể hay đặc điểm của hiện tượng thế gian là: vô thường, khổ, vô ngã. Vậy mình cũng có thể hiểu Quán là quan sát hiện tượng thế gian bằng con mắt trí tuệ.
14 Tháng Tám 202311:20 SA(Xem: 1835)
Muốn đạt được kết quả tốt, người thực hành phải hội đủ 5 tiêu chuẩn cần thiết: Tự lực, Nhu cầu, Quyết tâm, Lý thuyết, và Lý luận. Đây là 5 tiêu chuẩn lập thành hệ thống lý luận thực tiễn trong việc thực hành Thiền Phật giáo. Muốn điều chỉnh thân, cải tạo tâm, cân bằng thân-tâm, và phát huy trí tuệ tâm linh có hiệu quả, 5 tiêu chuẩn nói trên không thể tách rời nhau được.
09 Tháng Tám 202312:40 CH(Xem: 2113)
Cốt lõi là cái tinh túy, cái tinh ba. Chớ không phải cái bề ngoài. Nếu so với cái cây, nó không phải là lá cây, cành cây.v.v. mà là cái lõi bên trong của cây. Cái cốt lõi đó phải ngắn gọn, mới gọi là cốt lõi. Mà trong đạo Phật có nhiều cốt lõi lắm. Tại sao vậy?
02 Tháng Tám 20238:44 CH(Xem: 2090)
Chư Tổ Phát Triển thường nói có tới 84 ngàn pháp môn tu, tức là có vô số cổng để bước vào ngôi nhà giác ngộ, hay ngôi nhà giải thoát. Hôm nay chúng ta thử khảo sát cánh cổng của Giới.
31 Tháng Bảy 202310:00 SA(Xem: 1544)
“Ngũ uẩn giai không” trong lời dạy này của đức Phật, là khi giác quan tiếp xúc với đối tượng, tâm hành giả biết nhưng không phản ứng thích thú hay chán ghét, tâm không nói thầm về đối tượng, thì Tánh biết có mặt. Tánh biết là cái biết rõ ràng lặng lẽ, trong sáng, khách quan, là cái lóe sáng đầu tiên của Tánh giác. Lúc bấy giờ toàn bộ ngũ uẩn yên lặng, không có cái Ta, cái của Ta hay Tự ngã của Ta trong đó, hành giả thoát khỏi mọi lậu hoặc, khổ đau.
17 Tháng Bảy 20231:44 CH(Xem: 1430)
Dès la clôture de la retraite bouddhique à Berlin, notre groupe de bhikkhunis - Nhu Minh, Nhu Sen et moi-même - a pris le lendemain, 19 mai, l'avion pour Paris. Le 20 mai au matin, la retraite de courte durée y a commencé, durant 3 jours, samedi, dimanche et lundi. Ce stage est également bilingue français-vietnamien avec la présence de quelques francophones qui écoutaient en direct l’enseignement à l’aide des écouteurs personnels. Ainsi la traduction ne gênait personne, et le cours se déroulait normalement comme d'habitude.
12 Tháng Bảy 20234:15 CH(Xem: 1942)
KINH VĂN : Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh. bao gồm bản Hán Việt, bản dịch nghĩa, bản Anh ngữ & Pháp ngữ
05 Tháng Bảy 20239:06 SA(Xem: 1109)
Như vậy con thuyền để chuyên chở mình đi trên giòng sông tâm linh là Tánh nguyên tắc. Mình phải cương quyết, với ý chí dũng mãnh giữ gìn những nguyên tắc sống thích hợp với những chân lý mà Đức Phật dạy. Đó là Tánh nguyên tắc trong thiền.
13 Tháng Sáu 20237:59 CH(Xem: 1609)
Hòa Lan, thành phố đông người trần tục hay vườn hoa thiên nhiên với con người an vui thanh thản?
11 Tháng Sáu 20234:39 CH(Xem: 1363)
Le 4 mai commençait la retraite dans un centre de la ville de Moissac. Cet endroit, situé sur une haute colline tranquille ayant abrité déjà plusieurs retraites bouddhiques, était un ancien couvent carmélite, aujourd’hui transformé comme lieu de villégiature pour touristes. La Sangha de Toulouse a toujours été composée davantage de pratiquants français que vietnamiens, d’où la nécessité d’organiser la retraite en bilingue. Tout le monde doit rester sur place, car c'est loin de Toulouse.
05 Tháng Sáu 20236:34 CH(Xem: 1657)
Trường Bộ Kinh Digha Nikaya 16. Kinh ĐẠI BÁT-NIẾT-BÀN (Mahàparinibbàna sutta)
30 Tháng Năm 20234:42 CH(Xem: 1158)
Trong tiếng Pāli, từ mano hay Ý có nghĩa tâm hay tư tưởng tương đương trong tiếng Anh là “mind” hay “thought”. Trong A Tỳ Đạt Ma (Abhidharma), mạt na dùng để chỉ đồng nghĩa với THỨC (viññāna: consciousness) và TÂM (citta: mind, state of consciousness)
29 Tháng Năm 20233:10 CH(Xem: 1234)
Theo quan niệm của Phật giáo thì Niết-bàn là trạng thái tâm thanh tịnh tuyệt đối, nghĩa là tâm dập tắt hoàn toàn ngọn lửa tham, sân, si. Người đạt được trạng thái Niết-bàn là người có thái độ sống an nhiên tự tại “thường, lạc, ngã, tịnh” ngay trong vòng xoáy “Vô thường, bất toại nguyện và vô ngã” nơi thế gian này!
20 Tháng Năm 20232:10 CH(Xem: 1306)
Liebe Freunde, ein Kochrezept zubereiten ist nichts anderes als eine Kultivierungsübung. Um zu überleben, essen wir und praktizieren wir. Daher sind die Prinzipien für eine gute Küche quasi die Prinzipien für eine gute Praxis. Kurz gesagt, alles, was wir tun, ist eine Kultivierung. Der Lebensweg ist auch der Kultivierungsweg. Alles ist abhängig von unserem Geist. Wie er das Objekt wahrnimmt, ist es das Reich, in dem wir leben.
16 Tháng Năm 20239:48 CH(Xem: 1622)
Khóa Tu Thiền Tập Đơn Giản Để Sống An Lạc từ 14 đến 19 tháng 4 năm 2023 tại Chùa Tích Lan, Ontario.
16 Tháng Năm 20237:21 CH(Xem: 1201)
Người “Sống Tùy Duyên Thuận Pháp” là người có tu tập theo lời Phật dạy. Một trong những pháp người đó thực hành là giữ chánh niệm trong bốn oai nghi đi, đứng, nằm, ngồi, hay khi làm bất cứ điều gì, cũng làm trong chánh niệm.
69,256