HỘI THIỀN TÁNH KHÔNG TRUNG ƯƠNG

ENG066: The Three Aspects of Knowing

10 Tháng Năm 20223:33 CH(Xem: 2774)

Ba Sắc Thái Biết

 

Bài viết này là một tóm lược của giáo trình của Thầy Thiền Chủ Thích Thông Triệt, dựa trên các bài đọc thêm của Thầy và các lời giảng của Ni Sư Thích Nữ Triệt Như tại Khóa Thiền Căn Bản

         





1 Mở đầu - Tạo sao chủ đề này quan trọng

 

Bộ óc con người có khả năng kỳ diệu giúp con người suy nghĩ, giao tế, học hỏi, đặt kế hoạch cho tương lai. Trong các loài vật, con người là sinh vật duy nhấtngôn ngữ. Ngôn ngữ giúp con người làm việc chung, trao truyền kinh nghiệm giúp dựng nên nền văn minh hiện nay và các phát minh khoa học kỹ thuật tinh xảo. Vùng vỏ não là một phần của bộ óc mà chỉ riêng con người và một số loài khỉ cấp cao có, được coi là nơi phát xuất ra trí thông minh , giúp con người có khả năng kỳ diệu nêu trên.

 


Nhưng con người, dù có khả năng chế ngự thiên nhiên và muôn loài, vẫn chìm đắm trong đau khổ triền miên. Con người cũng có khả năng tạo ra thù hận, giết chóc ở một mức độ hơn tất cả các loài thú khác. Đức Phật khi thành đạo đã chứng ngộ được nguồn gốc sâu xa của đau khổxung độtcon đường đưa đến giải thoát. Ngày nay, chúng ta có thể đối chiếu những lời dạy của Đức Phật với những hiểu biết của khoa học về não bộ để soi sáng con đường tu tập của chúng ta.

 

Theo kiến thức thông thường thì chúng ta “biết” qua sự suy nghĩ, tính toán, suy luận, phân biệt sự vật, phân biệt phải trái. Cái biết này xử dụng hai cơ chế mà chúng ta gọi là Ý CănÝ Thức. Ý CănÝ Thức là cái Biết của Tâm Phàm Phu thường đưa tới đau khổ. Nhưng mỗi con người cũng còn có một cái biết khác, đó là cái biết của Tánh Giác. Tánh Giác chính là bản thể của con người, là cái biết bẩm sinh, không học hỏi, không gián đoạn, khách quan. Tánh Giác là cái Biết của Tâm Bậc Thánh. Biết sống với Tánh Giác là đọan trừ khổ đau và phát huy trí tuệ tâm linh.

 





Trong bài này chúng ta sẽ xem qua ba sắc thái của cái biết, tức là cái biết của Ý Căn, của Ý Thức và của Tánh Giác.

 

2 Ý Căn

 

Ý Căn là cơ chế tạo nên sự suy nghĩ, lý luận, sự suy luận hay biện luận, cũng là nơi biểu lộ nhân cách và là nguồn gốc của sự học hỏitrí thông minh. Về phương diện vị trí, Ý Căn nằm tại vùng vỏ não phía tiền trán, ở bên phía trái, tức là tiền trán bán cầu vỏ não trái. Ý Căn cũng liên hệ mật thiết với ngôn ngữ là một cơ chế đặc biệt chỉ con người mới có.

 

Ý Căn là nơi lập thành những gì đã được biết, hoặc tưởng nhớ những gì trong quá khứ, phân tích, hình dung, tưởng tượng, xét đoán, so sánh với những kinh nghiệm đã học được. Đây là nơi lý luận bằng sự nói thầm trong não về một chủ đề nào đó, để tìm ra giải pháp cho một vấn đề nào đó. Ý Căn cũng là nơi suy luận hay biện luận, dựa vào kinh nghiệm quá khứ để tính toán, phỏng đoán tương lai. Nhân cách của ta như thế nào phần lớn cũng do sự biểu lộ của suy nghĩ. Thí dụ như nghĩ xấu, nghĩ tốt, nghĩ thiện, nghĩ ác về ai. Từ những suy nghĩ liên miên của Ý Căn khởi lên những sắc thái tâm như buồn, vui, giận hờn, ghen ghét, gian tham, khổ đau, luyến tiếc v..v.. Đặc điểm của Ý Căn là nó dựa trên kinh nghiệm, dựa trên những tư tưởng cũ mà ta đã biết, đã học hỏi. Khả năng suy luận, căn bản của trí thông minh, thường được gọi là Trí Năng, là một thành phần quan trọng của Ý Căn.

 


Ý Căn liên hệ mật thiết với ngôn ngữ, đến sự nói thầm trong tâm. Tại vùng bán cầu não trái là vị trí của Ý Căn cũng có một vùng gọi là vùng Broca, là một vùng quan trọng trong cơ chế hình thành ngôn ngữ. Vùng Broca là nơi giải mã khái niệm, tức là nơi ý niệm được chuyển sang ngôn ngữ và được chuyển sang cơ bắp lưỡi họng để phát âm.

 

blank

 


Trong kinh gọi Ý Căn là Ý (Pāli: Mano, Sanskrit: Manas). Còn Trí Năng thì kinh gọi là Tâm (Pāli và Sanskrit: Citta), tuy nhiên cả Ý Căn, Trí NăngÝ Thức cũng được gọi chung là Tâm (Citta).

3 Ý Thức

 

Ý Thức là khả năng phân biệt đối tượng. Khi đối tượng tiếp xúc với giác quan thì Ý Thức là nơi nhận diện ra đối tượng. Ý Thứctrạng thái “biết có sự phân biệt”, hay còn gọi là nhị nguyên, luôn luôn dựa trên sự phân biệt so sánh: phải/trái, xanh/đỏ, tốt/xấu, đúng/sai, khác /giống. Ý Thức cũng cần đối tượng, không có đối tượng thì Ý Thức không khởi lên.

 


Ý Thức trong kinh gọi là Thức (Pāli: viññāṇa, Sanskrit: vijñāna). Hai chữ này được kết hợp bằng hai từ: “vi” là “sự phân chia” hay “sự phân biệt”, còn “ñāṇa hay “jñāna” là “biết”. Do đó Ý Thức là cái biết có sự phân biệt, có sự phân chia.

 

Ý Thức cũng là nơi điều tra, nghiên cứu, phân tách, tổng hợp để rồi cuối cùng đưa tới quyết định. Như khi ta đối đầu với những tình trạng nghiêm trọng, thì Ý Thức là nơi đưa ra những quyết định, những hành động quyết liệt. Và một khi đã quyết định thì Ý Thức có một thúc đẩy mạnh mẽ phải công bố ra, tức là phải nói ra cho người khác biết, hoặc làm ra hành động. Do đó, Ý Thức là nơi tạo nên khẩu nghiệpthân nghiệp. Trong suốt thế kỷ 20, ý thức hệ đã là nguyên nhân chính tạo nên các cuộc chiến tranh thảm khốc và đẫm máu nhất.

 


Về phương diện vị trí, Ý Thức nằm ở vùng tiền trán của bán cầu vỏ não phải.

 

Một đặc tính khác biệt giữa Ý CănÝ ThứcÝ Căn thích nói thầm trong não, trong khi Ý Thức thì thích công bố, thích nói ra lời.

 
4 Tâm Ba Thời và khổ đau

 

Ý Căn luôn luôn bươi móc quá khứ nên trong kinh gọi là Tâm Quá Khứ. Ý Thức phải có đối tượng ở trước mặt mình để phân biệt so sánh nên kinh gọi là Tâm Hiện Tại. Còn Trí Năng suy đoán tương lai nên kinh gọi là Tâm Tương Lai. Kinh Kim Cang gọi ba tâm quá khứ, hiện tại, tương lai là Tâm Ba Thời và gọi tâm này là “bất khả đắc” tức là không thể nắm bắt được.

 


Khi suy nghĩ về quá khứ, ta gợi lại trong tâm những kỷ niệm buồn cũ, ta luyến tiếc những kỷ niệm đẹp đã qua đi, ta luyến tiếc những cơ hội đã bỏ lỡ, ta giận hờn những lời nói hành động mà ta cho là đã xúc phạm đến ta, ta thù hận những người ta nghĩ đã làm hại ta. Khi ta phân biệt so sánh trong hiện tại, ta tham muốn có được thêm về cho ta, ta ganh ghét những ai hơn ta, ta nổi lên lòng tự mãn đối với nhũng ai thua kém ta, ta thấy nhũng cái sai của người, ta thấy những cái đúng của ta, ta buồn phiềnhoàn cảnh chưa được toàn vẹn của ta. Khi suy tính tương lai, ta mong đoạt được tiền tài, tình thương, danh dự mà ta cho là ta đang không có, ta ganh ghét những người đang có những gì ta mong ước, ta buồn vì không toại ý với hoàn cảnh đương thời của ta, ta thù, giận những ai ta nghĩ là nguyên nhân khiến ta ở trong tình trạng hiện nay.

 

Do đó kinh gọi Tâm Ba Thời là Vọng Tâm, Đức Phật gọi là Hồ Nước Đục mang đến khổ đau và phiền não cho con người. Khổ đau phiền não vì tâm bị dính mắc vào đối tượng trong quá khứ, trong hiện tại, trong tương lai, muốn nắm bắt, chiếm đoạt đối tượng. Mà trong thế gian thì không có gì thường hằng cả mà cứ muốn nắm bắt thì thể nào cũng thất vọng, luyến tiếc, cũng có những ước mơ không thành tựu. Khổ đau phiền não vì bên dưới Tâm Ba Thời là lòng khát ái vô tận, là tự ngã lúc nào cũng lo lắng, không bao giờ biết đủ, là cái mớ lậu hoặc, hay tập khí, kiết sử, tùy miên mà ta đã mang theo trong tâm từ bao nhiêu ngàn vạn tiền kiếp.

 




Khi tâm lăng xăng dao động, hay khi ta suy nghĩ, lo âu, giận hờn thì từ não tác động hệ giao cảm thần kinh, tiết ra chất norepinephrine tạo ảnh hưởng dây chuyền khắp cơ thể, tạo nên bệnh tâm thể như áp huyết cao. Do đó Tâm Ba Thời tạo ảnh hưởng không tốt trên cả tâm và thân.

 


Sau đây là một đồ hình tóm lược các thành phần của Vọng Tâm.

 

 blank

5 Tánh Giác

 

Tánh Giác là bản thể hay chân tính (nature, true nature) của chính con người, giúp con người có cái biết thường hằng về môi trường chung quanh và bên trong cơ thể. Vì biết thường hằng, không gián đoạn, nên có dữ kiện hay không có dữ kiện nó vẫn biết, có đối tượng hay không có đối tượng nó vẫn biết. Tánh giác là cái biết lặng lẽ, không lời, không phân biệt, không chọn lựa. Tuy không có chọn lựa nhưng nó có phân tích và trực giác nên khi chạm trán đối tượng nó thấy và nhận rõ ngay tức khắc nội dung đối tượng mà không dính với đối tượng. Do đó, dù đối tượng có hấp dẫn, nó vẫn không bị đối tượng quyến rũ hay chi phối. Dù đối tượng có tệ bạc, lăng nhục tự ngã, nó vẫn bình thản dửng dưng.

 


Tánh giác là cái biết rõ ràng về môi trường chung quanh và bên trong cơ thể mà trong não không khởi lên lời nói nào về sự biết đó. Khi ta sinh hoạt trong đời sống, nó hằng tiếp thu ngoại trần, nội trần, kiến giải tất cả mà tâm vẫn không động.

 

Kinh gọi Tánh Giác là Buddhitā (Pāli và Sanskrit), gồm có từ “buddhi” có nghĩa là cái “biết”, và “tā” là “tánh”, hay “bản thể”, hay chỉ danh từ. Như vậy “buddhitā” chỉ có nghĩa đơn giản là “tánh biết” mà thôi. Không nên lầm lẫn “buddhitā” với “buddhatā”, trong đó từ “buddha” có nghĩa là “giác ngộ”.

 

Vị trí tánh giác: phía sau bán cầu não trái, mặt ngoài của Vỏ não..

Buddhatà được dịch là Phật tánh (Buddha- nature) là tiềm năng giác ngộ được phát huy từ vùng Precuneus, thuộc Vỏ não, vùng thùy đỉnh.

 

Trên phương diện chức năng Biết không lời, Tánh Giác gồm có ba tánh. liên hệ đến giác quan, là các Tánh Thấy, Tánh Nghe và Tánh Xúc Chạm.

 Sâu sắc hơn là Tánh Nhận Thứcchức năng của vùng Precuneus.



Cái biết của Tánh Nghe, Tánh Thấy, Tánh Xúc Chạm là cái lóe sáng biết đầu tiên khi giác quan tiếp xúc đối tượng. Tánh Nhận Thức ngoài khả năng tự nhận thức biết còn liên hệ với ba tánh Thấy, Nghe, Xúc Chạm để cho ta nhận thức biết qua thấy, nghe, xúc chạm.


 

Cái biết của Tánh Giác là cái biết tức khắc, ngay trong sát na đầu tiên đã nhận biết liền về đối tượng mà trong tâm chưa có khởi lên lời nói thầm nào. Cái biết đó rất rõ ràng, đầy đủ và sâu sắc nhưng không có sự phân biệt so sánh, không có khen chê, không có thích hay không thích, không có tình cảm khởi lên. Cái biết của Tánh Giác là cái biết khách quan, khi Tánh Giác tiếp xúc với đối tượng thì đối tượng như thế nào ta thấy y như vậy, trong tâm hoàn toàn phẳng lặng, không gợn sóng. Do đó Tánh Giác còn gọi là Tâm Bây Giờ và Ở Đây.

 

Thiền Tông hay ví cái BIẾT KHÔNG LỜI (Nhận thức có lưu giữ trong  ký ức) với một tấm gương, hay một mặt hồ, phản ảnh đối tương một cách trung thực mà không giữ dấu vết gì, như trong bài thơ của thiền sư Việt Nam Hương Hải Thiền Sư:

“Nhạn quá trường không  Chim nhạn bay qua khoảng không gian rộng lớn

Ảnh trm hàn thuỷ          Hình bóng chim nhạn chìm dưới giòng nước lạnh

Nhạn vô di tích chi ý        Chim nhạn không có ý lưu lại dấu vết

Thuỷ vô lưu ảnh chi tâm”  Dòng nước cũng không có tâm lưu giữ hình                                            bóng chim”



Tánh Giác là một khả năng bẩm sinh của con người, nó là tiềm năng giác ngộ mà ai cũng có, nó không cần học hỏi, không cần kinh nghiệm, không được làm ra hay được sáng tạo, nên Đức Phật gọi nó là “cái vô sinh”. Nó nằm ngoài lãnh vực của cái biết phân biệt của Ý Thức, cái biết suy luận của Trí Năng, và cái biết bằng suy nghĩ của Ý Căn. Tuy ai cũng có Tánh Giác nhưng trong nhiều người, nó là cái biết thụ động vì nó chưa được đánh thức để trở thành một năng lực mới thay thế cho Ý CănÝ Thức.

 



Tánh Giác và sâu sắc nhất là Phật tánh, là tiềm năng giác ngộ, tức là khả năng giúp ta kiến giải những điều mới lạ và sáng tạo mà trước kia ta chưa từng biết đến. Phật Giáo Phát Triển gọi là Chân Tâm, Thiền Tông gọi là “Ông Chủ”.

 

blank

 

Trên phương diện vị trí, Tánh Thấy nằm ở Thùy Chẩm tức là sau ót, Tánh Nghe nằm ở Thùy Thái Dương, Tánh Xúc Chạm nằm ở Thùy Đỉnh và Tánh Nhận Thức thì nằm ở trên gần đỉnh đầu, thuộc Thùy Đỉnh .

 



Khi ta thực hành cái biết không lời thì tâm ta hoàn toàn tĩnh lặng và tác động vào một trong các tánh của Tánh Giác nên trí tuệ tâm linh bật ra. Mặt khác, hệ thống đối giao cảm thần kinh được tác động, tiết ra chất acetylcholine điều hòa áp suất máu, điều chỉnh nội tạng. Kết quả là thân thể khỏe mạnh, tâm an lạc, trí tuệ tâm linh phát huy, đưa đến hết khổ nơi thân và tâm.

 




 

6 Tóm lược: Sơ đồ Ba Sắc Thái Biết

blank


Hết

The Three Aspects of Knowing

 

This article is an introductory summary of the teachings of Zen Master Thích Thông Triệt on the topic, mainly based on the oral teaching of Bhikkhuni Zen Master Thích Nữ Triệt Như given for the Fundamental Meditation Course. For a comprehensive in-depth understanding, the reader is encouraged to attend the complete nine-seminar teaching program and read the writings of Master Thích Thông Triệt that are being progressively translated into English.

 

1. Introduction – Why this topic is important

 

The human brain has a prodigious capacity to think, communicate, learn and plan for the future. Alone in the animal kingdom, humans are the only species with language. Language allows people to work together, transmit knowledge, and help build the current civilization with its sophisticated scientific and technological achievements. The cortex is the part of the brain that only humans and some higher apes have; it is regarded as the seat of intelligence, a remarkable ability unique to the human race.

 

Despite their ability to dominate nature and all living beings, humans are still immersed in continual suffering. People can also generate hatred and killings on a much greater scale than any other animals. When Buddha attained enlightenment, he saw the root causes of suffering and conflicts, and the path to liberation. Today, we can reconcile the teachings of the Buddha with the scientific understanding of the brain in order to illuminate our spiritual path.

 

According to common understanding, we “know” through our thoughts, judgment, reasoning, and differentiating and distinguishing right from wrong. This knowledge uses two functions that we call the thinking mind and consciousness. The thinking mind and consciousness constitute the mind of ordinary people, which often leads to suffering. But every person also has another faculty, the knowing of the wordless awareness mind. The wordless awareness mind is the essence of what it is to be human, it is the innate faculty for knowing, is not learned, is continuously activated, and is objective. The wordless awareness mind is called the holy mind in Buddhism. To live with the wordless awareness mind is to be free from suffering and to foster our spiritual wisdom.

 

In this article, we will look at three aspects of knowing, i.e. knowing by the thinking mind, by the consciousness, and by the wordless awareness mind.

 

2 Thinking Mind

 

The thinking mind is the seat of thinking, reasoning, inference and argumentation. It is where the personality and learning originate. In terms of location, the thinking mind is located in the left pre-frontal cortex. It is also closely associated with language, which is a capability that only humans have.

 

The thinking mind is where we store past experiences, where we remember things that happened in the past, where we analyze, visualize, imagine, judge and compare with what we have learned from experience. This is where reasoning occurs through silent inner talk in order to solve problems. Inference and argumentation, based on past experience, occur there to imagine and predict the future. Our personality is mostly the expression of our thoughts, arising, for example, from habits of thinking about others, bad or good, loving or evil. The constant ruminations of the thinking mind generate states of mind such as sadness, joy, anger, jealousy, greed, misery, regret, etc. The key characteristic of the thinking mind is that it is based on past experience, on ideas that we have previously learned. A key function of the thinking mind, its capacity for reasoning, which forms the basis of intelligence, is often separately identified as the intellect.

 

The thinking mind is closely associated with language and with the silent inner self-talk that occurs in our mind. Located in the same left pre-frontal cortex as the thinking mind is a region of the brain called Broca’s area, which is a key area in the formation of language. Broca’s area is where concepts are decoded into language elements that are transferred to the tongue and throat muscles for pronouncement.

 
blank


The suttas call the thinking mind “thought” (Pāli: mano, Sanskrit: manas, Vietnamese: ý) and the intellect the “mind” (Pāli and Sanskrit: citta, Vietnamese: tâm), but the combination of thinking mind, intellect, and consciousness, is also referred to as “mind” (citta).

 

3 Consciousness

 

Consciousness has the ability to differentiate objects and is the function that identifies an object when it comes into contact with the senses. It is the seat of “knowing by differentiation”, also called dualistic knowing. It always relies on differentiation and comparison: left / right, blue / red, good / bad, right / wrong, different / similar. Consciousness also needs an object; it is not activated if there is no object.

 

The suttas refer to the consciousness as viññāṇa in Pāli or vijñāna in Sanskrit. These terms are combinations of two words: “vi” meaning “division” or “distinction”, and “ñāṇa” or” jñāna” meaning “know”. Therefore, consciousness means knowing by distinction or by division.

 

Consciousness is also the function that investigates, researches, analyzes, and integrates information leading to a decision. For example, when we are faced with a dangerous situation, consciousness is the function that comes up with decisions and decisive actions. And once a decision is made, the consciousness has also a strong urge to announce it, by saying or doing something. Therefore, consciousness is the function that generates speech karma and bodily karma. Throughout the 20th century, ideologies based on consciousness were the cause of the most destructive and bloodiest wars.

 

The consciousness is located in the right pre-frontal cortex.

 

A key difference between the thinking mind and consciousness is that the thinking mind generates inner self-talk, whereas the consciousness likes to publish, to say things out loud as words or actions.

 

4 The past-present-future mind and suffering

 

The thinking mind always searches the past and is called the “past mind” in the suttas. The consciousness must have objects right in front of it to differentiate and compare, and is called the “present mind”. The intellect predicts and speculates about the future, and is called the “future mind”. The Diamond Sutta refers to the thinking mind, consciousness, and intellect as the “past-present-future mind” and describes it as elusive, impossible to grasp.

 

When we think about the past, we recall sad memories, we regret the good times that are gone, we regret the missed opportunities, we are angry about words or actions that we think have offended us, we feel hatred towards those people who we think have caused us harm. When we differentiate and compare in the present, we desire to have more, we envy those who are ahead of us, we look down on those who are behind us, we see what people are doing wrong, we see what we are doing right, and we feel sorrow for anything deemed unsatisfactory in our life. When we plan the future, we desire the wealth, love and status that we think we are lacking, we envy those who have what we don’t, we feel dissatisfied with our current situation, we hate those we think are the cause of our current predicaments.

 

The suttas call the past-present-future mind the “false mind”, the Buddha calls it the “dirty water pond”. It brings sorrow and suffering. Sorrow and suffering come as the mind is attached to objects in the past, present, future. It wants to grasp, to possess objects but in this world there is nothing permanent, and wanting to grasp always leads to disappointment, regret, and unfulfilled dreams. Suffering and sorrow come because underneath the past-present-future mind is our unquenchable craving and the ego that is always anxious and never knows when is enough. Underneath this mind is also the mass of mental defilements, old habits, fetters and underlying tendencies that we carry in our mind from thousands of past lives.

 

When our mind is busy worrying about things, when we think, feel anxious or angry, the sympathetic nervous system gets activated and produces norepinephrine. This biochemical starts a chain reaction throughout the body that leads to psychosomatic illnesses such as high blood pressure. The past-present-future mind has a negative influence on the body as well as the mind.

 

The following is a summary diagram of the components of the false mind.

 

blank

 

5 The Wordless Awareness Mind

 

The wordless awareness mind is the essence or true nature of human beings that enables us to have a continuous knowledge of what is happening in the environment and inside the body. It is a continuous, permanent, uninterrupted knowledge that is always active whether or not there is anything to be processed. Wordless awareness is knowledge that is silent, non-verbal, without differentiation, without choice. Despite being choiceless, it has an innate analytical and intuitive faculty that allows us, when we come into contact with objects, to gain an immediate and clear appreciation of them while not being attached to them. Therefore, if an object is attractive, the wordless awareness mind does not get seduced. If the object betrays or humiliates the self, the mind stays calm and unaffected.

 

Wordless awareness is knowledge of what is happening in the environment and inside the body without any silent verbal commentary arising. When we move through life, it constantly processes what is happening, understanding everything while keeping the mind unaffected.

 

The wordless awareness mind is referred to in the suttas as buddhitā (P & S, V: tánh giác). Buddhitā consists of the word “buddhi” meaning “knowing”, and “tā” meaning “nature” or “essence”. Therefore, Buddhitā means “the nature of knowing”. It should not be confused with Buddhatā in which the word “buddha” means “enlightenment”. Buddhatā is our Buddha nature, it is our potential for enlightenment.

 

The wordless awareness mind operates from the left rear cortex of the brain, whereas Buddhatā operates from the precuneus, which is in the parietal lobe of the cortex.

 

The wordless awareness mind includes three functions associated with the senses: ultimate seeing, ultimate hearing and ultimate touch, and a more profound function, ultimate cognition, located in the precuneus.

 

The knowing that arises from ultimate seeing, ultimate hearing, and ultimate touch is the first flash of knowledge that happens when the senses come into contact with an object. Ultimate cognition has a dual function: it acts in conjunction with ultimate seeing, ultimate hearing and ultimate touch to develop a cognitive understanding of the object, but it also has the capacity of self-cognitive awareness, awareness of itself without the need for a stimulus.

 

The knowledge gained through wordless awareness is instantaneous, it occurs at the first unit of time when the senses come into contact with an object before any words have arisen in the mind. This knowledge is clear, complete and insightful, l but does not involve differentiation, comparison, praise or blame, like or dislike, nor any other emotions. Knowing through the wordless awareness mind is objective. The wordless awareness mind sees the object exactly as it is, while the mind is totally at peace, untroubled. This is why it is also called the here-and-now mind.

 

Zen Buddhism often compares the wordless awareness mind with a mirror or the surface of a lake, which faithfully reflects images without keeping a trace. This is so in the following poem by 17th century Vietnamese Zen Master Hương Hải Thiền Sư:

The swallow flies over the vast sky

Its image sinks into the cold lake

The swallow does not intend to leave a trace

Nor does the lake intend to keep an image of him

 


The wordless awareness mind is an innate faculty of all humans, it is the potential for enlightenment that all humans possess and does not need to be learned, experienced or created. This is why the Buddha calls it “the unborn”. It lies outside the realm of knowledge through differentiation carried out by the consciousness, knowledge through reasoning carried out by the intellect, or knowledge through thinking carried out by the thinking mind. Every one of us has a wordless awareness mind, but in many of us, it lies inactive because it has not been awakened to become a new energy replacing the thinking mind and the consciousness.

 

The wordless awareness mind and, in particular, its deepest component the Buddha nature is our potential for enlightenment, our ability to discover new and innovative things that we have never previously known. Developmental Buddhism calls it the “true mind”; Zen Buddhism calls it “the boss”.

 
blank


In terms of location, ultimate seeing operates from the occipital lobe, ultimate hearing from the temporal lobe, ultimate touch from the parietal lobe and ultimate cognition from the parietal lobe near the top of the head.

 

When we practice wordless awareness, our mind is completely still, and this stimulates one or several of ultimate seeing, ultimate hearing, ultimate touch, and ultimate cognition. This, in turn, causes spiritual wisdom to burst forth. Meanwhile, the parasympathetic nervous system is activated and produces acetylcholine, which regulates blood pressure and brings balance to the internal organs. The result is a healthy body, peaceful mind, and developed spiritual wisdom, leading to an end of suffering and sorrow in the mind and body.

 

 

 

6 Summary Diagram of the Three Aspects of Knowing

 blank

End

Ý kiến bạn đọc
22 Tháng Giêng 20245:43 CH
Khách
Please send this topic content to my email address.
Thank You.
Uyen Nhu
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
11 Tháng Tư 20237:56 CH(Xem: 1858)
Vai trò của khoa học não bộ rất quan trọng. Đây là kiến thức thời đại. Chúng ta mượn khoa học não bộ để đối chiếu cách thực hành của chúng ta qua Pháp của Phật. Có như thế chúng ta mới chứng minh được giá trị Pháp của Phật đối với mọi trình độ căn cơ. Chúng ta biết vì sao chúng ta thực hành sai, vì sao chúng ta thực hành đúng.
01 Tháng Tư 20239:35 SA(Xem: 1424)
Wir befinden uns mitten in einem wirbelnden Wasserstrudel, würden wir darin stehen bleiben, würden wir von dem absorbiert werden und wir werden ertrinken. Wenn wir uns bewegen würden, würden wir uns auch nur in diesem wirbelnden Strudel herum drehen. Aber wie können wir denn diesem Lebenskreis entkommen?
26 Tháng Ba 20237:30 CH(Xem: 1797)
Đã không biết bao năm qua, mình khờ dại đi tìm “Qua khỏi vùng sương mù là xứ thần tiên”. Đã bao lần thấy vùng sương mù, bao lần mơ ước sẽ gặp xứ thần tiên, nào có gặp được. Tìm cầu bên ngoài, làm sao có xứ thần tiên. Cuối đời mới biết xứ thần tiên thiệt ở trong tâm của mình.
24 Tháng Ba 202310:02 CH(Xem: 1912)
Đức Phật tự nhận: “Như Lai chỉ là người chỉ đường, các ông phải tự đi”. Các ông phải tự đi có nghĩa là các ông thấy ra con đường rồi, cứ tiến bước một mình, không được ỷ lại nơi ai khác, con đường chánh pháp là trí tuệ của mình sẽ đưa chúng ta trở về bản tâm. Trong bản tâm, tất cả pháp đều là Phật pháp, và thế gian là cõi Phật thanh tịnh an vui.
24 Tháng Ba 202310:18 SA(Xem: 1135)
Tài sản mà đức Phật nói đây không phải là tiền bạc, vòng vàng, châu báu, mà là tài sản về tinh thần, như niềm tin bậc giác ngộ, đạo đức, trí tuệ là những thứ tài sản không bao giờ bị đánh cắp, chiếm đoạt, trừ phi chính người sở hữu tài sản tâm linh đó tự mình phá hủy chúng. Các tài sản quý báu đó có tên gọi là: Tín tài, Giới tài, Tàm tài, Quý tài, Văn tài, Thí tài và Tuệ tài.
22 Tháng Ba 20234:26 CH(Xem: 1499)
Không phải hễ ngộ là chấm dứt hết lậu hoặc! Vì vậy, tuy hạt ngọc đã có sẵn, nhưng ta phải nỗ lực dụng công. Vô ngôn chính là phương thức làm cho Phật tánh bật ra vậy.
18 Tháng Ba 20239:58 SA(Xem: 1377)
Wir müssen in der Lage sein, zu erkennen, wann wir den Bedingungen folgen sollen und wann wir eventuell andere Bedingungen schaffen sollen, um im Einklang mit dem Universum leben zu können, denn wir sind die Schöpfer unseres Lebens, für jetzt und für die Zukunft.
15 Tháng Ba 202311:03 CH(Xem: 1835)
Thực tập phương thức làm chủ sự suy nghĩ, đó là cách ta trực tiếp huấn luyện tâm trở nên yên lặng hay trở nên thuần. Nó không lăng xăng dao động vì những chuyện thị phi (phải-trái) của thế gian.
13 Tháng Ba 202311:02 SA(Xem: 1083)
Những ai hủy phạm giới pháp mà lòng không biết tàm quý, không biết ăn năn, hối hận, không biết sám hối, không chịu từ bỏ tật xấu ác quay về với con đường thiện lương đạo đức, thì hiện tại dù họ đang sống trên đời, nhưng sống trong thống khổ, vì phải chịu trả giá những tội lỗi của họ gây ra...
08 Tháng Ba 20238:24 CH(Xem: 1651)
Hôm nay, thấy hoa thủy tiên nở rộ, hoa mai cũng e ấp đón gió mát, con biết mùa xuân sang. Đã tới mùa mừng sinh nhật Thầy. Thầy đã xuất hiện nơi cõi đời nhằm mùa xuân, Thầy đã thấy con đường, cũng một mùa xuân năm đó, rồi Thầy ra đi, một đêm cuối mùa đông.
08 Tháng Ba 20238:17 CH(Xem: 1587)
Chúng ta đang ở giữa biển nước xoáy, nếu chúng ta đứng lại nơi đó thì ta sẽ bị đắm chìm cuốn hút và chết đuối. Nếu chúng ta bước tới, cũng chỉ là loanh quanh trong biển nước xoáy thôi, bước tới hay bước lùi, có khác gì đâu, rồi cũng trôi giạt bồng bềnh trong biển đời, không ra khỏi. Vậy thì làm sao đây?
05 Tháng Ba 20239:03 CH(Xem: 1324)
GEDANKE heißt in Chinesisch “mạt na”. Wahrscheinlich wurde es aus dem Wort “Manah oder Manas“ in Sanskrit übersetzt. “mạt na” (S: Manah) oder Gedanke bedeutet die Denkfähigkeit oder das Denkvermögen. In English heißt er “the capacity of thought”, “the thinking faculty”. In Pali bedeutet das Wort Mano der Geist oder der Gedanke. Im Abhidharma wird Manha gleichgesetzt mit Bewusstsein (viññāna) und Geist (citta, Bewusstseinszustand).
05 Tháng Ba 20239:01 CH(Xem: 1020)
Ngày lành tháng tốt đối với người Phật tử là ngày đẹp trời, thuận lợi cho mình và cho mọi người tham dự, có thể xem là một trong những điều kiện góp phần vào kết quả chứ không phải là yếu tố tối quan trọng quyết định sự thành công hay thất bại. Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
28 Tháng Hai 20239:06 CH(Xem: 2176)
Chúng ta phải sáng suốt biết lúc nào nên tùy duyên, lúc nào phải tạo duyên tốt, phải biết mình sống có thuận pháp không, vì chính mình là chủ tạo ra cuộc đời của mình, trong bây giờ và mai sau nữa.
27 Tháng Hai 20238:19 CH(Xem: 1754)
Việc làm bếp đâu có khác việc tu tập. Làm bếp để sống, thì tu tập cũng để sống thôi. Cho nên những nguyên tắc để làm bếp tốt cũng là những nguyên tắc để tu tập tốt. Việc gì ta làm cũng là tu tập, con đường đời cũng là con đường tu, do nơi cái tâm của mình, nó thấy ra sao. Nó thấy ra sao, đó là cảnh giới mình đang sống.
25 Tháng Hai 20232:42 CH(Xem: 1628)
Trời đất vô tình, vạn vật vô tình, mà vạn vật biết sống hài hòa với hoàn cảnh tự nhiên. Chúng ta có trí, có tri giác, có tình cảm, vậy phải biết sống đời thiện lành, quan sát tâm mình từng giây phút, ý nghĩ đúng, lời nói đúng, hành động đúng...
23 Tháng Hai 20237:55 SA(Xem: 1148)
Sống ở đời ai cũng mong cầu được hạnh phúc. Hạnh phúc là gì? Các nhà tâm lý học ngày nay mô tả hạnh phúc là một trạng thái tâm lý tích cực của con người được thể hiện bởi cảm giác vui vẻ, thích thú, hài lòng trước những đầy đủ về vật chất và thoải mái về tinh thần. Nó khiến bản thân người ta cảm thấy yêu đời hơn.
18 Tháng Hai 20232:24 CH(Xem: 1313)
Das Naturgesetz regelt alle Phänomene. Es ist gleichzeitig ihr Evolutions- und Entwicklungsgesetz. Es gründet das Universum, regelt den Ablauf des Universums, schützt und pflegt die Existenz des Universums. Die Welt ist offenbar eine wunderbare Harmonie von Idappaccayatā.
14 Tháng Hai 20233:56 CH(Xem: 1466)
Đọc tụng bài kinh “Bát Đại Nhân Giác” chúng ta học theo tinh thần từ bi, lấy trí tuệ làm sự nghiệp của chư Phật, chư Bồ tát. Kinh nhắc nhở chúng ta tám điều quan trọng cần phải học hỏi tu tập. Đó là phải luôn quán xét vạn pháp trong đó có tấm thân ngũ uẩn của con người không thực chất tính nên nó vô thường, khổ, không, vô ngã...
13 Tháng Hai 202310:37 SA(Xem: 1473)
Mạt na hay Ý có nghĩa năng lực của tư tưởng hay năng lực tư duy, Trong tiếng Pāli, từ mano hay Ý có nghĩa tâm hay tư tưởng, Trong tiếng Pāli, từ mano hay Ý có nghĩa tâm hay tư tưởng tương đương trong tiếng Anh là “mind” hay “thought”. Trong A Tỳ Đạt Ma (Abhidharma), mạt na dùng để chỉ đồng nghĩa với THỨC (viññāna: consciousness) và TÂM
05 Tháng Hai 20236:14 CH(Xem: 1623)
Tánh giác không từ đâu đến. Nó không nằm trong quy luật duyên sinh của hiện tượng. Ta không thể khám phá nó khởi ra từ đâu khi có sự xuất hiện của con người trên quả đất.
28 Tháng Giêng 20237:39 SA(Xem: 1282)
Realität ist nicht 100%ig echt aber auch nicht 100%ig illusorisch. Oder „Das Gerade jetzt“ existiert, ist „echt“ und gleichzeitig „illusorisch“. Oder In der Realität ist eine Illusion vorhanden und in der Illusion existiert eine Realität.
25 Tháng Giêng 202311:14 SA(Xem: 1762)
Định luật Y Duyên Tánh vận hành tất cả thế gian. Nó cũng là định luật biến hóa và phát triển, là sức sống mãnh liệt, đã thành lập vũ trụ, điều hành vũ trụ, và bảo vệ duy trì sức sống của vạn vật. Thế gian biểu hiện sự hài hòa tuyệt vời theo sự biến hóa khách quan của “Y Duyên Tánh”. Vậy, các bạn thân ơi, đây có phải là một bức tranh puzzle tuyệt vời không?
24 Tháng Giêng 20233:16 CH(Xem: 1448)
Chỉ có người thực sự bước vào dòng Thánh mới kinh nghiệm được thọ thanh tịnh. Người còn nhiều dính mắc không bao giờ kinh nghiệm được nhận thức ngoài cảm giác.
18 Tháng Giêng 20237:43 CH(Xem: 2067)
Đất trời quê hương đang vào xuân, mong gởi một món quà nhỏ tặng cho bạn tri âm, mùa xuân trong tâm mình.
18 Tháng Giêng 20237:51 SA(Xem: 1401)
Der Buddhismus betrachtet die „Geburt“ nicht als Beginn eines neuen Lebens sondern die Geburt beginnt bereits mit dem Tod, dann folgt eine Rückkehr und eine erneute Geburt. Diesen Zyklus: Geburt und Tod, Werden und Vergehen, nennt man im Buddhismus den Daseinskreislauf (Samsara) und Alter ist ein Teil dieses Lebenskreislaufs.
17 Tháng Giêng 20231:21 CH(Xem: 1253)
Cái gì được nhận ra đầu tiên trong một sát na, và nhận rõ cuối cùng qua những chuỗi sát na tiếp theo, là đối tượng của nhận thức.
10 Tháng Giêng 20231:01 CH(Xem: 1403)
Thực tại là “giống như Thực” , đồng thời là “giống như Huyễn”. Đó là Trung Đạo. Nói cách khác nữa: Thực tại là không phải hoàn toàn Thực, cũng không phải hoàn toàn Huyễn. Cũng có thể nói: “Cái Đang là” vừa là “Thực” vừa là “Huyễn”.
08 Tháng Giêng 20235:46 CH(Xem: 1494)
Es gibt kein Phänomen oder Ereignis, das unabhängig und von selbst oder zufällig gebildet und entwickelt wird.
05 Tháng Giêng 20239:01 SA(Xem: 1408)
Các bạn ơi, đây cũng chỉ là một bài ghi lại chuyện sinh hoạt trong tháng 12- 2022 này, mình trở về thăm thiền viện Chân Như, ở Navasota thuộc Texas. Không thể nói là”chuyến du hóa” được vì thiền viện Chân Như là “nhà mình” mà.
27 Tháng Mười Hai 20223:39 CH(Xem: 1358)
Meditation hilft der Menschen, harmonisch mit der Umwelt zu leben. Eine Harmonie zwischen Körper und Geist eines Individuums, eine Harmonie zwischen einem Individuum und anderen Individuen und eine Harmonie zwischen einem Individuum und der Natur.
24 Tháng Mười Hai 202212:22 CH(Xem: 1332)
... Không có cái nào độc lập và tồn tại vững chắc. Chỉ vì tất cả hiện tượng đều vô ngã, tức không thực chất tính, chúng nương tựa vào nhau mà trở thành.
17 Tháng Mười Hai 20227:50 SA(Xem: 1523)
Toàn thể cơ quan tâm-vật lý này ở trong luồng thường hằng như bánh xe quay không bao giờ ngưng. Nó cứ quay mãi, và cơ quan tâm-vật lý cứ trôi lăn mãi trong vòng luân hồi.
11 Tháng Mười Hai 202210:19 SA(Xem: 1573)
Trong 12 mắt xích, Thức (viññāṇa) và Danh - Sắc (nāma-rūpa) được xem là mắt xích cơ bản. Từ hai mắt xích này, tất cả những liên quan chủ thể-khách thể trong kinh nghiệm bình thường được phát xuất, và cấu trúc năng động cũng bộc lộ sự vận hành bên trong tâm. Thông qua chúng, sự chuyển biến của chúng ta từ vô minh đến giác ngộ có khả năng thực hiện được.
69,256