HỘI THIỀN TÁNH KHÔNG TRUNG ƯƠNG

Thích Nữ Hằng Như: VÔ TẦM VÔ TỨ ĐỊNH

08 Tháng Mười Một 20214:08 CH(Xem: 2841)

TẦM VÔ TỨ ĐỊNH

(P: Avitakka avicāra samādhi)

THÍCH NỮ HẰNG NHƯ
blank

---------------------------------------

I. DẪN NHẬP

Vô Tầm Vô Tứ Định là tầng Định thứ hai trong bốn chi Thiền do đức Phật thiết lập. Bốn chi Thiền đó gồm Sơ Thiền tương xứng với Sơ Định hay Định Hữu Tầm Hữu Tứ, Nhị Thiền tương xứng với Vô Tầm Vô Tứ Định, Tam Thiền tương xứng với Xả hay An Chỉ Định, Tứ Thiền tương xứng với Chánh Định.

Vô Tầm Vô Tứ Định là nền tảng cơ bản của tất cả các loại Định trong Thiền Phật Giáo gồm chung cả ba hệ: Nguyên Thủy, Phát Triển và Thiền Tông. Tầng Định này được thiết lập trên cơ sở không quán tưởng, không suy nghĩ, nói chung là trong vô ngôn hay không lời. Nếu thành tựu Định này vững chắc, Tánh giác sẽ có mặt trong bốn oai nghi. Hành giả nào muốn đi đến cuối cùng của Thiền Phật Giáo đều phải kinh nghiệm được tầng Định này.

Trên đường tu Định có nhiều cách tu tập. Dù phương cách có khác nhau  nhưng chung quy cũng đưa đến chỗ tâm “vắng lặng không lời”. Muốn thực hành không sai lệch,  trước hết chúng ta cần tìm hiểu ý nghĩa của “Định” là gì? Chức năng nào đảm nhận vai trò đó? Đồng thời chúng ta cũng cần phải hiểu cụm từ “Định Vô Tầm Vô Tứ” là Định ra làm sao?

Thuật ngữĐịnh” là từ ngữ chuyên môn trong Thiền. Nó được đức Phật dùng để chỉ tâm yên lặng. Sự yên lặng đó đức Phật mô tảtrạng thái tâm thuần nhất, tức là trong tâm của chúng ta chỉ hiện hữu một trạng thái biết không lời. Nếu biết mà có lời, thì tâm đang có vọng tưởng. Còn về từ ngữVô Tầm Vô Tứ” được đức Phật dùng để mô tả trạng thái ngôn hành không động. Như vậy Định Vô Tầm Vô Tứ là tầng định bắt buộc chúng ta phải dụng công làm cho tiếng nói trong đầu phải chấm dứt.

  

II. Ý NGHĨA “VÔ TẦM VÔ TỨ ĐỊNH” LÀ GÌ?

- Định tiếng Pãli và Sankrist là “Samādhi”, người Trung Hoa dịch theo âm là “tam muội”. Về  ngữ căn “Sam-ā-dhi” có nghĩa là “gom chung lại với nhau” (to put together) hay “tập trung” (concentrate).

- Trong Trung Bộ Kinh số 30 (Tiểu Kinh Ví Dụ Lõi Cây)  có ghi: “… Tỷ-kheo diệt tầm và diệt tứ, chứng và trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm, không tứ, nội tĩnh, nhất tâm”. Như vậy định là “Nhất tâm” (cittass’ekaggatā). Đây là trạng thái tâm đồng nhất với đối tượng bên ngoài giác quan, nơi đó không có ý thức hiện hữu mà chỉ có “đơn niệm biết”.

- Trung Bộ Kinh số 36 (Đại Kinh Saccaka), Định được xem là trạng thái tâm thuần nhất” (cetaso-ekodhi-bhãva) . Trong đó nội tâm thiền gia không còn Tầm Tứ.

 - Trong Pháp Bảo Đàn Kinh, Tổ Huệ Năng định nghĩa “Nội tâm bất loạn Định”. Một vị cao tăng đắc đạo khác là ngài Hàn Sơn người Trung Hoa, đời nhà Đường trong bài thơ viết trên vách núi Thiên Thai cho rằng  Định là “tám gió thổi không động” (bát phong xuy bất động). Tám gió đó là: Lợi (lợi lộc hay thắng lợi); Suy (sự suy đồi, suy sụp, thua lổ); Hủy (phỉ báng, hạ nhục, ô nhục); Dự (lời ca tụng, tán dương); Xưng (đề cao, khen ngợi); Cơ (chê bai, nói xấu); Khổ (bất toại nguyện, đau khổ); Lạc (vui vẻ, an lạc).

- Thời nay, vị Tổ sư dòng Thiền Chân Không-Thường Chiếu là Hòa Thượng Trúc Lâm tại Việt Nam cũng dạy: “Vọng tưởng dừng, là Định” nghĩa là trong đầu yên lặng, không còn suy nghĩ  lung tung, thì đó là trạng thái Định.

Căn cứ vào các dữ kiện trên, chúng ta biết rằng muốn đạt được trạng thái Định, người thực hành phải đạt được trạng tháiBiết không lời” là cái Biết của Tánh Giác. Vì nếu “Biết có lời” cho dù là lời đúng, nhưng đó là cái Biết của Tưởng, của Thức nên tâm vẫn còn động  chưa phải là “tâm thuần nhất”. Do đó, khi hành giả ở trong trạng thái Định mà tâm ngôn vẫn khởi lên, đức Phật gọi đó là “Định Có Tâm Có Tứ”. Còn tâm ngôn yên lặng, đức Phật gọi đó là trạng tháiĐịnh Không Tầm Không Tứ”. Tâm ngôn ở đây chính là Tầm Tứ, là sự suy nghĩ, là những lời thầm thì qua lại trong não.

- Không Tầm Không Tứ Định: Xuất nguyên từ tiếng Pãli là “Avitakka Avicāra Samādhi” có nghĩa là “Định không lý luận xét đoán, cũng không tư duy biện luận” nghĩa là tâm hoàn toàn yên lặng.  Về ý nghĩa của hai từ Vitakka và Vicāra được hiểu như sau:

- Vitakka: Người Tàu dịch là Tầm. Nguyên gốc chữ này có nghĩa: “suy tư, suy nghĩ,  ngẫm nghĩ, lý luận, lý lẽ…”.  Trên phương diện thực hành thiền, chúng ta có thể hiểu ý nghĩa cốt lõi của những từ ngữ này chính  là “tâm ngôn” (mental chatter), hay “sự nói thầm” (muttering) trong não.

- Vicãra: Trước kia Tàu dịch là Quán, ngày nay người ta dịch là Tứ. Nguyên gốc Vicãra có nghĩa là: “sự dò xét, quán sát, tư duy, biện luận, cân nhắc…” Trên phương diện thực hành thiền, ý nghĩa cốt lõi của dò xét, quán sát, tư duy biện luận… chính là “sự đối thoại thầm lặng” tức suy nghĩ dây dưa hết chuyện này đến chuyện khác trong não.

Cả hai Tầm và Tứ thuộc về cái Biết của Ý thứcÝ căn. Chúng là tâm sở thuộc phạm vi Sơ Thiền. Có nghĩa là khi thực hành thiền, ở bước đầu chúng ta cần sử dụng Tầm và Tứ để tư duy, tìm hiểu về pháp học và pháp hành. Sau đó, ta cần quán sát đối tượng để nhận ra thực chất của pháp học. Trong trường hợp này, tác dụng của Tầm và Tứ giúp chúng ta chuyển đổi nhận thức, có cái nhìn mới về cuộc đời, không còn mê lầm, mê chấp, về hiện tượng thế gian. Từ đó, chúng ta dần dần buông bỏ những trói buộc ngoại duyên.

Thí dụ, Phật dạy “vạn phápvô thường”. Muốn hiểu rõ thực chất ý nghĩa của vạn phápvô thường, ta phải suy tư, ngẫm nghĩ, tức sử dụng Tầm để tìm hiểu ý nghĩa của thuật ngữ Vô thường là gì. Sau đó, ta sử dụng Tứ là quán sát hay dò xét về đối tượng, để xác minh tính chất vô thường của đối tượng đó.

Cụ thể, ta có thể chọn quán sát tiến trình phát triển của nụ hoa. Ban đầu, nụ hoa nở thành một đóa hoa xinh đẹp, màu sắc tươi thắm, hương thơm ngào ngạt. Hoa chỉ đẹp trong vài ngày ngắn ngủi, sau đó đổi màu, rồi héo úa tàn tạ, từng nhánh hoa rơi rụng xuống mặt đất. Qua vài cơn gió thổi những nhánh hoa tàn úa đó bay đi mất.  Cuối cùng đóa hoa trên cành không còn nữa.  Quán sát tiến trình phát triển của nụ hoa như vậy, chúng ta thấy được ngay từ lúc khởi đầu hoa mới nở, thời gian hoa tồn tại, hư hao, rơi rụng và biến mất. Chúng ta kinh nghiệm được tính chất vô thường của đóa hoa. Từ đó, chúng ta có thể liên tưởng đến cảnh vật xung quanh, theo thời gian đều không thoát khỏi qui luật vô thường biến dịch, giống như tình trạng “sinh diệt” của đóa hoa, đúng như lời Phật dạy.

Để hiểu thêm về luật vô thường, chúng ta có thể quán sát tiến trình hình thành một con người. Ban đầu còn là bào thai trong bụng mẹ đến khi ra đời, theo thời gian lớn lên.

Về thân: Khi thân thể phát triển đầy đủ, đứa nhỏ bé xíu ngày nào, dần lớn lên trở thành một thanh niên cường tráng, khỏe mạnh, tóc đen, mắt sáng… Theo thời gian người đó biến đổi thành người trung niên, rồi…  già nua, tóc bạc, răng rụng, da nhăn, má hóp, lưng còng và bệnh tật.

Về tâm: Trong cuộc đời của mình, người đó kinh nghiệm bao nhiêu lần những vui buồn, phiền não, sợ hãi, lo âu, giận hờn, tranh chấp…

Cuối cùng:thọ mệnh hay yểu mệnh, không ai thoát khỏi sự chết và biến mất ở thế gian này. Qua sự quán sát đó, chúng ta thông suốt ý nghĩa vô thường trên tất cả mọi loài mọi vật, dù hữu tình hay vô tình đều thay đổi theo thời gian. Không có hiện tượng nào là trường cửu hay bất diệt.

Như vậy Tầm và Tứ lúc ban đầuphương tiện cần thiết giúp ta có nhận thức đúng đắn về thực chất của hiện tượng thế gian. Tuy nhiên, muốn an trú trong Định, chúng ta phải buông  phương tiện Tầm và Tứ. Bởi vì nếu ta cứ suy nghĩ, cứ quán xét lý luận thì sóng não ta không bao giờ yên lặng, triều tâm lúc nào cũng dao động nên Chỉ và Định vắng mặt.

- Vô Tầm/Không Tầm (Avitakka): Là “Không lý luận xét đoán”. Nghĩa phía sau thuật ngữ này là “không nói thầm”. Muốn đạt đượcVô Tầm”, ta phải đạt được “sự không nói thầm trong não”. Đây là cách thực tập tiến thẳng vào ý nghĩa cốt lõi của thuật ngữ.

- Vô Tứ/Không Tứ (Avicāra): Nghĩa là “Không tư duy, không biện luận”. Nghĩa phía sau thuật ngữ này là “không đối thoại thầm lặng”. Muốn đạt đượcVô Tứ”, ta phải thành tựu cách “không tự nói qua nói lại thầm lặng” bên trong não bộ.

Tóm lại, “Vô Tầm Vô Tứ Định” là tâm yên lặng,  không có sự nói thầm cũng không có sự đối thoại thầm lặng bên trong não. Nó có nghĩa là “Định không lời” hay “Định không khái niệm”. Vậy muốn đạt được Vô Tầm Vô Tứ Định, ta phải đạt được trạng tháivô ngôn vững chắc”.

 

III. LÀM SAO ĐỂ ĐẠT ĐƯỢC “ĐỊNH KHÔNG TẦM KHÔNG TỨ” ?

Như định nghĩa ở trên “Không Tầm Không Tứ Định” là trạng thái tâm hoàn toàn yên lặng, không suy nghĩ, không khái niệm.

Dưới đây là gợi ý một số các chiêu thức và kỹ thuật thực hành rút ra từ những bài học trong kinh điển cũng như kinh nghiệm của các bậc Thầy chỉ dạy nhằm huấn luyện tế bào não có quán tính dao động từ từ làm quen với sự yên lặng.

 

1)  Thu thúc lục căn (hay Ý thức không đối tượng): Khi sáu căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý tiếp xúc với sáu trần: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; hành giả cố ý đóng cửa sáu căn không cho ý thức nhảy ra suy nghĩ, phân biệt, so sánh nọ kia. Xem như các giác quan của hành giả hiện hữu trong tiến trình thấy biết, nghe biết, xúc chạm biết mà “cái ta ý thức” không có mặt trong tiến trình đó. Nói dễ hiểu là khi mắt nhìn thấy đối tượng, biết. Tai nghe âm thanh, biết. Thân xúc chạm, biết… nhưng ngay lúc đó trong đầu “không có lời nói thầm hay suy nghĩ gì về đối tượng đó” thuật ngữ gọi cái biết này là “Biết không lời”. Thực tập miên mật nhiều ngày, khi cái Biết không lời vững chắc, hành giả sẽ kinh nghiệmĐịnh Vô Tầm Vô Tứ”.

 

 2) Pháp “không định danh” hay “không gọi tên đối tượng”: Định danh đối tượng ở đây bao gồm ý nghĩa đặt điều dán nhãn, khen chê đối tượng. Còn tại sao gặp đối tượng (biết) mà không gọi tên? Đó là vì nếu gọi tên hay định danh đối tượng là chúng ta tiếp tay để cho Ý thức hoạt động. Chúng ta biết rằng chức năng của Ý thứcphân biệt, so sánh hai bên, thuật ngữ gọi là “tâm nhị nguyên” nên khi chúng ta vừa tiếp xúc đối tượng thì Ý thức liền giúp ta nhận định đối tượng theo quán tính chủ quan của nó là tốt hay xấu, thiện hay ác, ưa hay không ưa v.v… Chúng ta dụng công pháp “không định danh đối tượng” hoặc “không gọi tên đối tượng” để ngăn chận không cho tâm ngôn khởi lên.

 

3) Pháp “Chú ý trống rỗng”:  Bằng mắt, nhìn tất cả đối tượng, thấy biết,  mà trong tâm chúng ta không nói thầm về đối tượng. Từ “trống rỗngtương ưng với “không gọi tên”. Không gọi tên đối tượng thì trong tâm yên lặng. Thực hành hoài, đến lúc có đối tượng hay không có đối tượng trước mắt chỉ cần “khởi ý trống rỗng” thì tức khắc trong đầu chúng ta yên lặng, trống rỗng.  An trú trong “trạng thái trống rỗng” tức trạng thái tâm không có sự hiện hữu của Tầm Tứ. Tầm Tứ yên lặng bao lâu thì hành giảkinh nghiệmĐịnh Vô Tầm Vô Tứ” bấy lâu.

 

4) Chiêu thức “Nghe tiếng chuông”: Thu sẵn âm thanh tiếng chuông vào máy MP3. Khoảng cách của mỗi tiếng chuông vang lên là mười tiếng đếm (1, 2, 3…. 10). Khi tọa thiền mở máy nghe. Nghe âm thanh, chỉ biết nghe, không thắc mắc trong đầu tiếng lớn hay tiếng nhỏ, âm thanh trong hay đục, không theo dõi âm thanh lơi hay chậm. Nghe tiếng chuông, trong đầu không suy nghĩ, không nói thầm gì hết. Tâm yên lặng. Nghe như vậy kích thích Tánh Nghe. Khi buông tiếng chuông không nghe nữa mà tâm hành giả không khởi niệm, thì lúc đó hành giả đang ở trong trạng thái  “Định Không Tầm Không Tứ.”

 

5) Chánh niệm tỉnh giác: Sinh hoạt hằng ngày chúng ta thực tập giữ niệm Biết Không Lời. Làm việc gì “thầm nhận biết” mình đang làm việc đó, không để tâm nghĩ đến những việc khác. Thí dụ: Khi đi, mình biết là chân mình đang bước đi. Khi ngồi, mình biết mình đang ngồi. Khi quét nhà, biết mình đang quét nhà. Khi ăn cơm, biết mình đang ăn cơm v.v.. Ngoài ra, khi giác quan tiếp xúc đối tượng, mình chú ý giữ niệm Biếtđang là” về đối tượng. Thực tập lâu ngày, năng lượng của Chánh niệm giúp mình giữ được bĩnh tĩnh, không bối rối, sợ hãi khi gặp chuyện không hay xảy đến cho mình, hoặc không quá sôi nổi sung sướng khi chuyện vui bất ngờ ùa đến. Ngoài ra, hằng ngày thường xuyên sống với Chánh niệm, khi tọa thiền, hành giả sẽ dễ vào Định vì Tầm Tứ quen yên lặng.

 

 6) Pháp THỞ :

i) Bước thứ nhất (Đơn Niệm Biết Có Lời): Ý Căn khởi niệm tập trung theo dõi hơi thở vào và hơi thở ra liên tục trong tiến trình thực hành để giúp tâm không tán loạn. Hành giả thực tập:

            - Hít vào dài, nói thầm: “ tôi biết… tôi hít vào dài”

                        - Thở ra dài, nói thầm: “tôi biết… tôi thở ra dài”

                        - Hít vào ngắn, nói thầm: “tôi biết… tôi hít vào ngắn”

                        - Thở ra ngắn, nói thầm: “tôi biết… tôi thở ra ngắn”

“Tôi biết…” là cái biết của Ý thức do tự ngã làm chủ. Tự ngã “khởi niệm tập trung là sắc thái của Tầm và chú ý quan sát là sắc thái của Tứ” tức có nói thầm trong não. Ở bước này, xem như hành giả thực tập Thiền Chỉ, tâm hành giả yên lặng không còn tán loạn, thuật ngữ gọi là “Định Có Tầm Có Tứ”.

ii) Bước thứ hai: Thầm lặng Biết “sự vào và ra của hơi thở”

            Bước này, hành giả chấm dứt không khởi niệm theo dõi hơi thở  nữa.  

- Hành giả để hơi thở vào hơi thở ra tự nhiên, chỉ “thầm nhận biết” hay “lặng lẽ biết” hơi thở vào, ra, thô, tế, dài, ngắn, sâu, cạn … Thầm nhận biết những cảm thọ trên thân qua các bước thực hành hít thở vào ra. Đây là “biết như thật” về sự vào, ra của hơi thở. Trong đó, không có chủ thể Ta/Tôi đóng vai trò, chỉ có niệm biết rõ ràng mà thôi! Áp dụng đúng như thế tâm được yên lặng, đạt được “Định có nội dung là BIẾT”. Biết này là “Biết không lời” tức biết không thông qua suy nghĩ, suy luận của tâm phàm phu.. Trong kinh gọi là  Sati-Samãdhi (Định niệm). Chữ Sati trong trường hợp này có nghĩa là sự “nhận biết” (awareness) là đặc tính của Tánh giác. Biết không lời vững chắc, sẽ kinh nghiệm được Định Không Tầm Không Tứ.

Cách thực tập:

        - (Khi hít vào) thầm biết đang hít vào. – (Khi thở ra) thầm biết đang thở ra.

Hành giả giữtrạng thái Thầm Nhận Biết sự vào và ra của hơi thở”. Bằng cách này quán tính Tầm và Tứ không thể khởi lên, vì hành giả không còn xử dụng Ý Căn mà chỉ xử dụng Biết không lời của Tánh giác. Do đó không có một niệm nào khác bất chợt xen vào trong tiến trình Định-niệm. Khi Định-niệm thường trực có mặt, đương nhiên Tầm và Tứ vắng mặt. Hành giả thành tựuĐịnh Không Tầm Không Tứnội tâm hoàn toàn yên tĩnh.

 

7) Kỹ thuật “KHÔNG NÓI” (*): Không Nói ở đây có nghĩa là không suy nghĩ, không nói thầm trong não. Tại sao lại sử dụng hai từ “KHÔNG NÓI” để thực tập? Đó là vì ý nghĩa của hai từ này tương ưng với “không lời”, mà trạng thái tâm không lời, đồng nghĩa với trạng thái tâm yên lặng, trạng thái tâm yên lặng, cũng có thể hiểu là trạng thái tâm trống rỗng. Tu tập Thiền Định là thực tập để Tâm Phàm Phu trở về trạng thái yên lặng tự nhiên.

Kỹ thuật KHÔNG NÓI là một tiến trình dụng công nhiều giai đoạn thực tập. Ở đây chúng tôi chỉ giới thiệu từ Giai đoạn I, là giai đoạn bắt đầu với dụng ý dùng Tầm tắt Tứ, rồi qua Giai đoạn II, dùng Ý tắt Tầm, đạt được Định Không Tầm Không Tứ.

- GIAI ĐOẠN MỘT: Dùng đơn niệm Biết (một nội dung là Không Nói để thực tập)

- Bước 1: Nói ra thành lời 2 từ “KHÔNG NÓI” để kích thích Tánh Nghe.

- Cách thực tập:

i) Nói ra lời: Nói nhừa nhựa, vừa đủ tai mình nghe “.. KHÔNG… NÓI…”…… “…KHÔNG… NÓI…” ……. “…KHÔNG… NÓI…”. Khoảng cách giữa 2 niệm biết  chừng  10 tiếng đếm. Về sau có thể kéo dài hơn 30 tiếng đếm. Thực tập vài ngày. Sau đó nói thầm.

ii) Nói thầm: “…KHÔNG… NÓI..” ….. “…KHÔNG…NÓI…”…… như trên.

Đây là tự mình nói ra hai từ “KHÔNG NÓI”. Hai từ này được xem như Tầm. Trong tâm mình mỗi lần chỉ khởi lên một niệm, nên khi niệm KHÔNG NÓI có mặt, thì niệm khác không thể khởi lên cùng một lúc. Dụng ý dùng hai từ KHÔNG NÓI là để chận những suy nghĩ (Tứ), không cho chúng khởi lên trong lúc hành giả ngừng nói.

Ban đầu khoảng cách của hai cụm từ “KHÔNG NÓI” hơi khít nhau. Về sau thì khoảng cách lơi ra để tâm làm quen với sự yên lặng. Thực tập mỗi ngày, kéo dài một tuần hoặc lâu hơn.

Ghi chú: Điều quan trọng là lúc nói, hay lúc im lặng không nói, hành giả đều có cái biết. Cái biết này là “Biết Có Lời” vì còn sử dụng Trí năng tỉnh ngộ để dụng công. Khi nói Không Nói, hành giảBiết mình đang nói hai từ “Không Nói”, khi ngưng, hành giảBiết mình đang không nói hai từ “Không Nói” tức đang im lặng. Trong khoảng thời gian im lặng này nếu vọng tưởng không khởi lên, thì kéo dài thời gian im lặng dài chừng nào tốt chừng nấy. Chỗ tâm yên lặng này chỉ có “niệm Biết”, xem như hành giả kinh nghiệm “Định Có Tầm Không Tứ”.

- Bước 2: Đi Thiền Hành, dùng đơn niệm biết nói ra thành lời “KHÔNG NÓI” để kích thích Tánh Xúc Chạm.

Cách thực tập:

 i) Bước đi khoan thai, áp dụng đúng theo kỹ thuật thiền hành. Chân trái chạm xuống đất nói ra lời “KHÔNG”, chân phải chạm xuống đất nói “NÓI”. Tập chừng một ngày. Sau đó nói thầm.

ii) Chân trái chạm xuống đất, nói thầm “KHÔNG”, Chân phải chạm xuống đất nói thầm “NÓI”.

- Bước 3: Mắt nhìn hai chữ “KHÔNG NÓI” viết sẵn để trước mặt. Đọc ra lời 2 từ “KHÔNG NÓI”, sau đó đọc thầm, để kích thích vào Tánh Thấy. Thực tập bước này ít nhất là một tuần.

- Bước 4: Nói ra lời, sau đó nói thầm trong não, câu : “Thầm nhận biết…  KHÔNG NÓI” kết quả đưa đến kích thích “Tánh Nhận Thức Biết”.

Cách thực tập: Trước tiên, hạ thấp giọng xuống, tiếp theo thong thả nói ra hai nhóm lời (group of words) với giọng nói nhừa nhựa, vừa đủ tai nghe.

Nói ra lời nhóm thứ nhất:  “T…h…ầ…m….. N…h…ậ…n…… B…i…ế…t…..” rồi nói tiếp nhóm thứ hai: “K…h…ô…n…g…………. N…ó…i….” ngưng một chút rồi lặp lại. Khi câu nói đã quen thuộc nơi cửa miệng. Hành giả chuyển qua nói thầm trong não câu này, suốt thời thiền. Thực tập khoảng một tuần hoặc hơn. Mục đích là để cất giữ câu này vào trong  Tánh Nhận thức.

 

GIAI ĐOẠN II: Biết Không Lời - Dùng Ý tắt Tầm

          Sau một tháng thực tập Giai đoạn I vững chắc.  Hành giả có thể bước qua giai đoạn II. Giai đoạn này không còn nói ra lời, hay nói thầm hai từ “KHÔNG NÓI”nữa. 

Từ “KHÔNG NÓI” đã nội tại vào trong Nhận Thức Cô Đọng của hành giảtrở thành “Mã Số Không Nói”.  Mã số Không Nói bây giờ trở thành mệnh lệnh. Khi ý nghĩ “KHÔNG NÓI” vừa phát ra, các tế bào não tự động yên lặng, cũng giống như khi chúng ta lái xe ngoài đường phố gặp bảng “Stop” hay “đèn đỏ”, là chân của chúng tathói quen tự động đạp thắng cho xe ngừng liền không cần suy nghĩ gì cả.

Cách thực hành:

- Khi tọa thiền, hành giảthầm khởi ý KHÔNG NÓI” rồi tắt Ý, “trạng thái Không Nói” xuất hiện ngay tức khắc trong tâm hành giả. Hành giả an trú trong “trạng thái biết không lời” đó (tức trạng thái tâm yên lặng, không còn Tầm và Tứ). Trạng thái Biết Không Lời vững chắc, hành giả kinh nghiệm ĐỊNH KHÔNG TẦM KHÔNG TỨ.

Để giúp trạng thái Định mỗi lúc một vững chắc hơn, thỉnh thoảng hành giả nên “gợi Ý Thầm Nhận Biết Không Lời” hay “Thầm Nhận Biết Trống Rỗng” rồi buông Ý.  Nếu quên niệm Biết, hành giả sẽ rơi vào hôn trầm mất Định. Đạt được tầng Định này hành giả cảm thấy hỷ lạc xuất hiện lúc đầu ít, sau nhiều. Hành giả biết nhưng không dính mắc với hỷ lạc, chỉ giữ vững Trạng thái Biết Không Lời cho đến hết thời  thiền.

 

IV. LÀM SAO BIẾT THIỀN ĐÚNG HAY THIỀN SAI?

Trong lúc thực hành Thiền có những điều kiện cần phải theo như:

1) Không tập trung:  Tập trung hoài vào một điểm trước mặt sẽ khiến bị hoa mắt, chóng mặt, nhức đầu. (Tập trung đối tượng là xử dụng Ý thức)

2) Không tự kỷ ám thị: Tự cho mình đã chứng đắc một cảnh giới nào đó trong lúc tọa thiền sẽ không bao giờ có kết quả thật sự. (Xử dụng Ý Căn)

3) Không tưởng tượng : Không tưởng tượng gì hết trong thời thiền. (Tưởng tượng  là đang xử dụng Trí Năng) .

4) Không nỗ lực quá sức: Công phu miên mật đều đặn nhưng không cố gắng quá sức.

Chú ý, tập trung, đè nén, tưởng tượng hoặc nỗ lực quá sức … khiến cho sóng não rối loạn. Những tín hiệu căng thẳng này, thường xuyên tác động vào Giao Cảm Thần Kinh tiết ra nội tiết tố Norepinephrine, Epinephrine… để đáp ứng nhu cầu căng thẳng của cơ thể. Hai chất này tiết ra nhiều và lâu ngày khiến cho hành giả mắc những căn bệnh về tâm thể (**) rồi đổ thừa “tu Thiền bị tẩu hỏa nhập ma”!

Thiền là phải Thư Giãn. Cho nên khi ngồi xuống bắt đầu buổi tọa thiền, hành giả cần thư giãn cả thân và tâm. Thư giãn thân là buông lỏng các cơ bắp, các thần kinh đầu, mặt, tay, chân, lưng v.v… Thư giãn tâm là buông tất cả niệm, không suy nghĩ, lo lắng hay cầu mong bất cứ điều gì trước khi khởi ý về chủ đề tu tập mình đã chọn. Điểm quan trọng cần thiết khác là khi tọa thiền phải giữ cột xương sống thẳng với cột xương cổ. Cuối xương sống (nơi xương cụt) và xương mông, lúc ngồi tạo thành một góc 90 độ. Cách ngồi như thế, tim, phổi, thận v.v… bên trong cơ thể giữ nguyên vị trí của chúng, hành giả không bị đau lưng, nhói tim, tức ngực, khó thở trong thời thiền.

Muốn biết mình thiền đúng hay sai. Hành giả có thể tự kiểm điểm bản thân sau mỗi thời thiền 10-15 phút bằng cách: Nếu mang chứng bệnh cao huyết áp hay tiểu đường, trước khi tọa thiền tự đo trước. Sau khi thiền đo lại nếu thấy huyết áp hạ, chỉ số đường xuống là thiền đúng.  Sau khi xả thiền, cảm thấy đầu óc nhẹ nhàng, sáng suốt, có khi lâng lâng, dễ chịu, hơi thở điều hòa, đó là thiền đúng. Cảm thấy phấn khởi, trong lòng vui vẻ, hăng hái làm việc không mệt, đó là thiền đúng. Ngược lại trong lúc tọa thiền, mồ hôi toát ra mà trong người cảm thấy nóng hay lạnh quá, đó là thiền sai (vì nỗ lực quá sức). Sau khi xả thiền cảm thấy nhức đầu, huyết áp gia tăng, bần thần khó chịu cả ngày, đó là thiền sai.

Tóm lại để biết mình tu sai hay đúng? Sau một thời gian tu tập, quan sát kết quả trên Thân, Tâm và Trí Huệ tâm linh của mình. Tu đúng là càng ngày mình càng nhận ra thân thể khỏe mạnh, đi đứng nhẹ nhàng, khoan thai, thần sắc trong sáng. Tâm bớt dính mắc, bớt phiền muộn, ít giận hờn, thường thanh thản, an vui, bao dung, tha thứ. Về Trí huệ tâm linh thì nhận ra mỗi ngày mình tiến triển nhiều hơn. Chẳng hạn như trước kia mình đọc kinh không mấy hiểu. Bây giờ đọc kinh sách mau hiểu hơn. Sống ngoài đời gặp những chuyện bất trắc mình giải quyết hài hòa, thông minh, nhanh lẹ, có lợi cho mình mà không hại người khác v.v…

 

 V. KẾT LUẬN

Bước đầu thực hành Thiền, điều quan trọng trước tiênhiểu rõ nội dung ý nghĩa của chủ đề cũng như những thuật ngữ được dùng trong kỹ thuật dụng công. Nếu hiểu sai cốt lõi thuật ngữ, hiểu sai cách thực hành, thì sự dụng công  sẽ đưa đến kết quả sai. Tiếp đến là chọn chiêu thức hay kỹ thuật thực hành thẳng vào mục tiêu chứ không đi loanh quanh lạc đề. Chúng ta cũng cần nhớ lời Phật dạy là các phương thức thực hành chỉ là phương tiện, là chiếc bè chở người qua sông. Muốn lên bờ thì phải buông phương tiện đó đi.

Chủ đề bài viết này là “Định Vô Tầm Vô Tứ” có nghĩa là tu tập để đạt được trạng thái tâm yên lặng. Muốn kinh nghiệm Định này, hành giả phải dứt niệm nói thầm triền miên trong não.

Ở đây xin nói thêm một chút về kỹ thuật “KHÔNG NÓI”. Không Nói là pháp thực tập có hơi mới mẻ so với các phương thức cổ điển, do cố Thiền Sư dòng Thiền Tánh KhôngHòa Thượng Thích Thông Triệt truyền dạy hơn 25 năm qua, đã mang lợi lạc cho nhiều tăng nithiền sinh khắp nơi.  Nghiên cứu kỹ thì kỹ thuật “KHÔNG NÓI” cũng không khác gì với các phương cáchđức Phật đã đưa ra. Đó là làm sao để đạt được tâm yên lặng.  

Thực tập pháp “KHÔNG NÓI” hành giả cũng phải ứng dụng vai trò quan trọng của Trí Năng tỉnh ngộ, tức là tự ngã phát ra ý nghĩ “KHÔNG NÓI”.  Ý nghĩ “KHÔNG NÓI” truyền thẳng vào vùng Wernicke, rồi từ đó truyền qua vùng Broca. Broca là trung tâm khuếch tán 2 từ “KHÔNG NÓI” đến những nơi tiếp nhận khác trong bộ não. Trước hết là vùng ký ức vận hành được xem là vùng ký ức ngắn hạn, rồi đến vùng ký ức xúc cảm (Amygdala), cuối cùng đến vùng ký ức dài hạn. Lúc bấy giờ toàn bộ não sẽ dần dần trở nên yên lặng mà không thông qua pháp nào hết. (**)

Tu tập không có gì khó, chỉ khó ở chỗ là hành giả có chịu dụng công miên mật về chủ đề “KHÔNG NÓI” tức là “không nói thầm trong não” một cách tích cực để cho tế bào não quen dần im lặngkhông gọi tên, không nói thầmkhi giác quan tiếp xúc đối tượng.  Đó là cách chúng ta huấn luyện tế bào não vùng phát ra lời Ý Căn, Ý Thức, Trí Năng chuyển sang quán tính yên lặng.

Sau cùng, chúng ta nhận ra rằng, giữa hai sắc thái tâm cách nhau một khoảng “nói thầm” hay “không nói thầm”. Nếu chúng ta nói thầm hay nói ra lời thì chúng ta đang ở trong Tâm Phàm Phu. Còn nếu chúng ta đối duyên xúc cảnh, nhìn thấy biết, nghe biết, xúc chạm biết trong không lời thì chúng ta lọt vào tâm bậc Thánh, an trú trong ĐỊNH VÔ TẦM VÔ TỨ.

              

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

       THÍCH NỮ HẰNG NHƯ

(Chân Tâm Thiền thất; 06/11/2021)

Tài liệu:

- Kinh Trung Bộ số 30 (Tiểu Kinh Ví Dụ Lõi Cây), số 36 (Đại Kinh Saccaka):”… Tỷ-kheo diệt Tầm diệt Tứ chứng và trú thiền thứ hai…..”

- Tương Ưng Bộ Kinh V,  Chương X: Tương Ưng Hơi Thở Vô, Hơi Thở Ra.

- (*) Giáo trình hoằng pháp của Cố Thiền Sư Thích Thông Triệt: “Bảy bước an trú trong tâm Tathā” với kỹ thuật “Không Nói” (19/4/2014)

- (**) E-book: “Trên Đường Về Nhà” chương “Thiền dưới ánh sáng khoa học” (thuvienhoasen.org); Tác giả: Thích Nữ Hằng Như; Ananda Viet Foundation phát hành 2020.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
14 Tháng Tư 20245:07 CH(Xem: 76)
Cảnh sanh khởi, biến đổi rồi hoại diệt của thế gian là tự nhiên, là bình thường, là hợp tình hợp lý. Nếu hiểu thật sự điều này thì khi cái gì đó sanh ra hay diệt mất, ta không vui cũng không buồn. Bây giờ tâm bình an, thanh thản, bây giờ mới thấy nơi nào cũng là ngôi nhà xưa của mình, cảnh nào cũng hiển lộ những chân lý vô thường, duyên sinh, vô ngã, bản thể trống không… Pháp âm của Phật vang rền khắp hư không, như vậy cõi này đang là cõi Phật đó, bạn hiền ơi.
17 Tháng Tư 20242:27 CH(Xem: 85)
Tu tập theo đạo Phật không phải để sở hữu được điều gì, mà thực ra là để buông xả không bám víu với bất kỳ những gì ở trên đời... mà chỉ nhận biết rõ ràng pháp đến rồi đi, đó là điều tự nhiên của vạn pháp. Và sự đến đi đó, là bài học “sinh diệt, vô thường, vô ngã” giúp cho chúng ta không bị dày vò phiền não khi nghịch cảnh đến, hoặc quá đắm chìm mê say hưởng khoái lạc, khi duyên thuận lợi đến với mình, mà phải sống trong trung đạo vừa phải.
16 Tháng Tư 202411:33 SA(Xem: 65)
Therefore, with our senses, we feel the “what-is.” It is the “As-Is Truth,” “Yathābhūta,” which is akin to the Truth, but it is not truly stable and permanent. It is also the “As-Is Delusion,” akin to a dream... The “As-Is Truth,” is the phenomena perceived by human senses and the latter, the “As-Is Delusion,” the Nature recognized by the Prajña Wisdom.
06 Tháng Tư 202410:03 SA(Xem: 184)
Nur einfach die Augen aufmachen und das Objekt wahrnehmen, wie es ist, mit verbalem oder nonverbalem Bewusstsein, der Geist ist rein, ruhig und objektiv. Das ist der Naturgeist. Gebote, Kontemplation, Samatha, Samadhi und Weisheit sind vollständig in ihm vorhanden.
06 Tháng Tư 20248:52 SA(Xem: 777)
... chiếc “xe một số” chính là cái Biết, nó đưa ta từ bước đầu tới bước cuối con đường. Thực ra, có con đường nào đâu, vì cái biết là của mình, từ đầu nó vẫn trong sạch, tĩnh lặng, khách quan và chiếu sáng. Bạn hiền ơi, cứ lấy viên ngọc đó ra mà xài, hồn nhiên, đừng lăng xăng tạo tác gì thêm nữa.
05 Tháng Tư 20246:46 CH(Xem: 199)
Bài Luận giảng này cho chúng ta biết rằng: điểm quan trọng bậc nhất của Thiền chỉ là làm chủ tâm ngôn. Không làm chủ được tâm ngôn, dù chỉ trong vòng vài giây đồng hồ, đường Thiền của ta sẽ đến nơi bế tắc.
04 Tháng Tư 20241:07 CH(Xem: 283)
In Spring 1929, we cheered our Master’s coming into life. In Spring 1982, we celebrated the glory of our Master’s Recognition of the Path. In Winter 2019, he left us... But with those, this morning, under warm sunlight, while relishing the spring flowers, how come it seems someone’s eyes are full in tear.
29 Tháng Ba 20247:58 CH(Xem: 461)
Vậy qua giác quan, ta thấy “cái đang là”, đó là thấy Như Thực, giống như thiệt, chứ không phải thiệt có bền vững, thường hằng, mà đó cũng là “cái Như Huyễn”, như mộng mà thôi. ...cái Như Thực là thấy hiện tượng qua giác quan, còn cái Như Huyễn là thấy bản thể qua trí tuệ bát nhã.
29 Tháng Ba 20247:35 SA(Xem: 311)
5 LÝ DO chúng tôi chọn chủ đề: LUẬN GIẢNG VẤN ĐÁP THIỀN VÀ KIẾN THỨC THỜI ĐẠI
27 Tháng Ba 20246:45 SA(Xem: 316)
Heute, ein Frühlingsmorgen, blauer Himmel, weiße Wolken, warme Sonne und volle Kirschblüten vor dem Hof ​​des Sunyata Zentrums, möchte ich euch einen Meditations-Laib: Gebote, Samadhi und Weisheit anbieten, der aus dem reinen Wissen eines Naturgeistes gemacht wurde.
25 Tháng Ba 20249:43 SA(Xem: 337)
La nature du monde est vide, est vacuité. Ce n'est juste qu'une illusion. Cette sagesse nous donne la capacité de séparer notre mental de tout attachement au monde. Ce n’est qu’alors que l’on peut demeurer dans la conscience "Ainsi". Lorsque nous possédons la sagesse et la perspicacité pour reconnaître la nature du monde, alors il n’y a plus de chemin, plus besoin de dharma, plus de portes à ouvrir. Nous vivons vraiment dans notre maison spirituelle qui existe depuis toujours en nous.
24 Tháng Ba 20245:02 CH(Xem: 507)
Mùa xuân năm 1929, mừng Thầy đến, mùa xuân năm 1982, mừng Thầy thấy rõ con đường, mùa đông năm 2019, Thầy đi.... ...Biết vậy, mà sao sáng nay, trong nắng ấm, ngắm hoa xuân, lại dường như có ai rơi nước mắt.
24 Tháng Ba 20244:44 CH(Xem: 462)
VIDEO Ni sư Triệt Như Giảng Đại Chúng: CON ĐƯỜNG GIỚI QUÁN ĐỊNH TUỆ ngày 16 tháng 3 năm 2024 tại THIỀN ĐƯỜNG TÁNH KHÔNG nam Cali
24 Tháng Ba 202410:27 SA(Xem: 327)
Trích từ sách Luận Giảng Vấn Đáp về THIỀN và KIẾN THỨC THỜI ĐẠI của HT Thích Thông Triệt (2014) - Luận giảng số 1 GIỚI THIỆU CÁCH THỨC TẠO LUẬN
17 Tháng Ba 20243:11 CH(Xem: 420)
Trích từ sách Luận Giảng Vấn Đáp về THIỀN và KIẾN THỨC THỜI ĐẠI của HT Thích Thông Triệt (2014) - Lời Tựa
17 Tháng Ba 20242:16 CH(Xem: 590)
Chỉ là đơn thuần, mở mắt ra nhìn ngắm, cảnh thế nào nhận biết y như vậy, diễn nói hay thầm lặng, tâm đều trong sạch, tĩnh lặng, khách quan. Đó là chân tâm, Giới, Quán, Chỉ, Định, Tuệ đầy đủ
13 Tháng Ba 20249:44 SA(Xem: 463)
Unzählige Jahre habe ich törichterweise nach einem „Märchenland im Jenseits des Nebels“ gesucht. Wie oft bin ich dem Nebel begegnet und wie oft habe ich davon geträumt, ein Märchenland zu finden. Am Ende meines Lebens wurde es mir klar, dass das wahre Märchenland nirgendwo draußen ist, sondern es ist in mir.
13 Tháng Ba 20249:16 SA(Xem: 427)
Les quatre niveaux du jhana (état mental), à travers lesquels le Bouddha a réalisé la Triple Connaissance, sont également connus comme “les quatre niveaux du Samadhi”. C’est ainsi que nous comprenons que le Samadhi joue un rôle important dans le Zen bouddhiste. Il est le passage obligé pour l'exploration du vaste firmament de la Sagesse transcendante.
10 Tháng Ba 20244:31 CH(Xem: 725)
Các bạn hiền ơi, sáng nay, một buổi sáng mùa xuân, nắng ấm, hoa mai đang nở rộ trước sân Tổ đình, trời xanh và mây trắng. xin dâng tặng cho bạn ổ bánh Thiền Giới Định Tuệ, làm bằng cái Biết trong sáng của chân tâm.
06 Tháng Ba 202410:36 SA(Xem: 659)
VIDEO Ni sư Triệt Như Giảng Đại Chúng: VẤN ĐỀ SINH TỬ ngày 17 tháng 2 năm 2024 tại THIỀN ĐƯỜNG TÁNH KHÔNG nam Cali
06 Tháng Ba 202410:20 SA(Xem: 439)
Nghĩa chữ “tu” không chỉ là sửa đổi hành động từ xấu sang tốt, mà chữ tu còn mang ý nghĩa là “thực tập” hay “hành trì” một pháp môn nào đó.
05 Tháng Ba 20242:20 CH(Xem: 653)
Research works from Dr. Michael Erb on the mapping of the brain of Master Reverend Thích Thông Triệt Những đo đạc sau cùng của Thiền sư Thích Thông Triệt đã được thực hiện vào ngày 8 và 9 tháng 6 năm 2013. Tôi tường trình ở đây một số kết quả từ những thực nghiệm này kết hợp với kỹ thuật chụp ảnh chức năng cộng hưởng từ (f-MRI) và điện não đồ (EEG, 256 channels).
28 Tháng Hai 20244:27 CH(Xem: 619)
VIDEO: Ni sư Triệt Như Giảng Đại Chúng: GẶP GỠ ĐẦU NĂM mùng 3 TẾT Giáp Thìn 2024 tại TỔ ĐÌNH TÁNH KHÔNG
27 Tháng Hai 20249:03 SA(Xem: 454)
La Sagesse, ici je veux dire le Vipassanā, la Vue profonde. Dans les limites de cet article, je passerai en revue le Satipaṭṭhāna sutta, Le récit de l’attention vigilante, extrait de la corbeille Nikāya. Bien que les gens disent toujours "Contemplation des Quatre Fondements de l’attention" et que, dans le sutra, il est aussi dit “Contempler le corps” (Kāya-anupassanā) etc. De nos jours les vénérables moines classent le sutra “Le récit de l’attention vigilante” dans le Vipassanā c'est à dire appartenant à la Sagesse. Donc, dans cet article, je le définirai aussi temporairement comme la Sagesse, c'est-à-dire utiliser la sagesse pour pratiquer
24 Tháng Hai 20249:13 CH(Xem: 599)
Tâm trong đạo Phật được giảng giải rất chi tiết tùy theo các tông phái trong đạo Phật. Bài viết này chỉ nhằm đáp ứng cho các Phật tử mới bắt đầu học Phật, giúp các bạn nhận ra tâm là gì?
22 Tháng Hai 20247:52 SA(Xem: 764)
Khi biết mà không dính với tất cả những pháp thế gian hạnh phúc hay phiền lụy, thì ngay khi đó tâm trở về trạng thái tĩnh lặng, cái biết tự tánh sẽ hiển lộ, đây là cái biết của trực giác. Cái biết trực giác này sẽ phát huy đến vô lượng, đưa người thực hành vượt qua bể khổ đến bờ giác ngộ giải thoát...
20 Tháng Hai 20243:56 CH(Xem: 736)
Lời ngõ: Loạt bài viết về các tầng Thiền của Đức Phật được trích từ quyển sách "Tiến Trình Tu Chứng Của Đức Phật" do Hòa Thượng Thích Thông Triệt biên soạn đã được phát hành lần đầu tiên năm 2005 và tái bản lần thứ nhì năm 2007. Mục đích của loạt bài viết này nhằm giúp cho Thiền sinh ôn lại phương thức thực hành đúng như lời Phật dạy. Kỳ này bài viết chỉ rõ phương thức thực hành để chuyển đổi từ tâm phàm phu sang tâm bậc thánh. Nếu không nắm rõ kỹ thuật thực hành thì xem như đường tu bị bế tắc đành phải chờ một duyên lành vậy.
15 Tháng Hai 20247:20 SA(Xem: 919)
VIDEO: Ni sư Triệt Như Giảng Đại Chúng: MÓN QUÀ ĐẦU NĂM ngày mùng 2 TẾT Giáp Thìn 2024 tại THIỀN ĐƯỜNG TÁNH KHÔNG nam Cali
14 Tháng Hai 20243:55 CH(Xem: 609)
A propos de la contemplation, il existe plusieurs variantes. Dans ce qui suit, je n’aborderai que l'Anupassanā, qui consiste généralement à contempler les phénomènes du monde de manière continue pour en saisir leur nature ou leurs caractéristiques qui sont: l’impermanence, la souffrance, le non-soi.
14 Tháng Hai 20243:29 CH(Xem: 599)
Nach der erlangten Erleuchtung ging der Buddha zum Wildpark, um den fünf Brüdern des Ehrwürdigen Kondanna die ersten Dharma-Sutras zu predigen, darunter das Sutra *Die Merkmale des Nicht-Ich*
09 Tháng Hai 20249:04 SA(Xem: 565)
So geht ein Frühling nie zu Ende. Auch wenn er einen anderen Namen wie Sommer, Herbst oder Winter hat, ist er immer der Frühling im Geist eines jeden. Wenn wir ihn Frühling nennen, ist er der Frühling. Wenn wir ihn nicht Frühling benennen, gibt es dann keinen Frühling, und wenn es keinen Frühling gibt, gibt es keine Jahreszeiten.
06 Tháng Hai 20243:13 CH(Xem: 652)
Mùa xuân cũng vậy, không bao giờ chấm dứt, trong tâm mỗi người. Dù cho nó có tên là hạ, thu, hay đông đi nữa, nó cũng là xuân. Khi mình gọi là Xuân thì là Xuân của mình. Khi mình không gọi gì hết thì không có mình, cũng không có xuân, và cả thế gian cũng biến mất.
31 Tháng Giêng 202411:00 SA(Xem: 582)
Người sống trong Mùa Xuân Xuất Thế Gian này tâm trạng luôn vô tư, bình thản, an vui, tự tại trong mỗi sát-na. Trạng thái đó tương tục mãi từ sát-na này đến sát-na khác, và cứ thế mà hưởng mùa Xuân bất tận vĩnh cửu.
29 Tháng Giêng 20248:11 CH(Xem: 900)
Lời ngõ: Loạt bài viết về các tầng Thiền của Đức Phật được trích từ quyển sách "Tiến Trình Tu Chứng Của Đức Phật" do Hòa Thượng Thích Thông Triệt biên soạn; đã được phát hành lần đầu tiên năm 2005 và tái bản lần thứ nhì năm 2007. Mục đích của loạt bài viết này nhằm giúp cho Thiền sinh ôn lại phương thức thực hành đúng như lời Phật dạy. BBT
20 Tháng Giêng 20249:38 CH(Xem: 679)
Am 24.12 kamen eine Schülerin und ihre Familie mit einem Obstkorb zu Sunyata Chan Nhu zu Besuch. In der Nacht hat sie mir über ihr stressiges Leben erzählt: dem vielseitigen Berufsleben, den ganzen Tag nur den Bildschirm anzustarren, dann die lange, lästige Besprechung in der Firma, so dass sie die Stimme des Arbeitskollegen noch im Ohr hörte, als sie zu Hause ankam. Als ich das gehört habe, war ich traurig. Ist das Leben draußen so schwer?
16 Tháng Giêng 202412:47 CH(Xem: 965)
Ngoài cái chớp mắt “đang là”, tất cả thân, tâm và cảnh là của quá khứ, của tương lai hay của hiện tại, chúng nó chỉ là ảo ảnh, ảo giác trong ký ức, hay trong tưởng tượng mà thôi. Hoa đào sẽ nở mỗi mùa xuân, nhưng đóa hoa năm nay đâu phải là đóa hoa năm trước. Người ngắm hoa đào bây giờ cũng không phải là người ngắm hoa năm cũ.
16 Tháng Giêng 202410:39 SA(Xem: 689)
Les cinq entraves sont les cinq liens qui enchaînent l'esprit humain dans les afflictions, créant ainsi de nombreux karmas qui le conduisent vers le samsara. Ces obstacles obstruent notre clarté d'esprit de telle manière que nous sommes embrouillés par l'ignorance et incapables de s'éveiller.
09 Tháng Giêng 20247:40 CH(Xem: 1323)
Đầu mối của thoát khổ, giác ngộ, và giải thoát bắt đầu từ điểm làm chủ sự suy nghĩ. Không làm chủ được sự suy nghĩ, phiền não và khổ đau vẫn dai dẳng theo ta; “lửa tam độc vẫn cháy;” bệnh tâm thể khó tránh; yên vui trong gia đình khó thành tựu; an lạc và hài hòa trong cuộc sống bình thường không thể nào có; Sơ Thiền, cũng không thể nào kinh nghiệm được.
03 Tháng Giêng 20249:34 SA(Xem: 813)
Le coeur est le noyau, la quintessence. Il ne se trouve pas à l'extérieur. Si on le compare avec un arbre, ce ne sont ni les feuilles ni les branches, etc... mais le noyau de l'arbre. Ce coeur doit être condensé pour être appelé le coeur. Cependant, dans le bouddhisme, il existe de nombreux coeurs ou des principes fondamentaux. Pourquoi?
02 Tháng Giêng 202410:36 SA(Xem: 1096)
Các em Thiền sinh đã tâm tình về cuộc sống của mình, cũng chịu nhiều áp lực: từ công việc quá phức tạp, bận rộn, suốt ngày dán mắt trên computer, rồi những giờ hội họp nặng nề dài đằng đẵng trong sở làm. Lúc trở về nhà lại còn mang theo lời nói, cử chỉ, thái độ không thân thiện của các nhân viên của mình. Lắng nghe các em tâm sự, mình thấy xót xa. Cuộc đời vất vả tới như vậy sao?
02 Tháng Giêng 202410:07 SA(Xem: 899)
Hôm nay tưởng niệm ngày Thầy rời xa chúng con tròn bốn năm. Chúng con tâm thành đảnh lễ Thầy một vị Ân Sư tôn kính. Lời tri ân xin được thay thế bằng sự cố gắng tu tập theo đúng Chánh pháp. Nguyện sống sao cho xứng đáng là đệ tử của Thầy.
25 Tháng Mười Hai 20238:25 SA(Xem: 1072)
Mình chỉ sống thảnh thơi, cái tâm bình an, thanh thản, hiểu biết những định luật tụ nhiên này, giúp người khác cũng hiểu biết như mình, sống hài hòa cùng nhau. Thì đâu còn cái gì là tham sân si, cái gì là lậu hoặc, cái gì là biển khổ trần gian nữa.
21 Tháng Mười Hai 20233:51 CH(Xem: 1001)
NIỆM, CHÁNH NIỆM, CHÁNH NIỆM TỈNH GIÁC Dù là những danh từ chết, thuật ngữ vẫn là những danh từ chuyên môn của một bộ môn. Tác dụng từ chuyên môn này nhắm giúp người mới bắt đầu đi vào ngành chuyên môn hiểu được thực chất các từ ngữ chết đó nói lên ý nghĩa gì, công dụng ra sao... Khi hiểu sai, sự dụng công của ta dễ dàng đưa đến sai. Tất nhiên kết quả sẽ trái với điều ta mong muốn
21 Tháng Mười Hai 202311:14 SA(Xem: 833)
Kiết sử là những sợi dây trói buộc, sai khiến chúng sanh trong ba cõi sáu đường. Nó sai xử chúng sanh làm việc này việc nọ, thiện có, ác có… tạo đủ thứ nghiệp, khiến chúng sanh phải chịu luân hồi sanh tử hết đời này sang đời khác để trả nghiệp quả đã gieo.
20 Tháng Mười Hai 20238:11 SA(Xem: 989)
Làm chủ sự suy nghĩ, đó là cách ta trực tiếp huấn luyện tâm trở nên yên lặng hay trở nên thuần thục. Nó không lăng xăng dao động vì những chuyện thị phi của thế gian. Tế bào não vùng suy nghĩ sẽ từ lần bị hạn chế dính mắc ngoại duyên. Ý hành, ngôn hành sẽ trở nên yên lặng. Tâm định sẽ trở nên vững chắc. Nếu thực sự đạt được làm chủ suy nghĩ, xem như ta làm chủ được sự di động của tâm.
13 Tháng Mười Hai 202311:24 SA(Xem: 1004)
A lit incense stick in honor of Thầy. Minh Tuyền
13 Tháng Mười Hai 202311:05 SA(Xem: 928)
Alors, Bahiya, il faut t'entraîner ainsi: Dans ce qui est vu, il n'y aura que ce qui est vu; Dans ce qui est entendu, que ce qui est entendu; Dans ce qui est ressenti, que ce qui est ressenti; Dans ce qui est connu, que ce qui est connu.
06 Tháng Mười Hai 20239:29 SA(Xem: 981)
La Bouddhéité vient de nulle part. Elle ne s'inscrit pas dans la loi de la causalité des phénomènes. Nous ne pouvons pas découvrir d'où elle vient depuis que l'homme est apparu sur terre. La Bouddhéité est la conscience immanente, appelée conscience primordiale. C'est une connaissance non verbale, par opposition à la connaissance de l'intellect et de la conscience discriminante.
03 Tháng Mười Hai 20236:39 CH(Xem: 986)
AUDIO: HT THÍCH THÔNG TRIỆT Thực hiện VIDEO: NHƯ ANH Đạo tràng Toronto
30 Tháng Mười Một 20232:03 CH(Xem: 833)
Đôi nét Giới thiệu trường Đại Học Tuebingen Đức Quốc và Tiến sĩ Vật lý Michel Erb Nơi và Người đã chung sức cùng hòa thượng Thích Thông Triệt xác định các định khu não bộ lúc hành Thiền Các kết quả này đã được công bố trong 2 kỳ Hội Nghị Quốc Tế về Não Bộ (OHBM) năm 2010 tại Barcelona (Tây ban Nha) và năm 2011 tại Quebec (Canada)
69,256