HỘI THIỀN TÁNH KHÔNG TRUNG ƯƠNG

Thích Nữ Hằng Như: Tìm Hiểu Ý Nghĩa “Niết-Bàn” Trong Đạo Phật

21 Tháng Tám 20202:28 CH(Xem: 6029)

TÌM HIỂU Ý NGHĨA “NIẾT-BÀN”

TRONG ĐẠO PHẬT
Tìm Hiểu Ý Nghĩa “Niết-Bàn” Trong Đạo Phật

 I. DẪN NHẬP

            Khái niệm Niết-Bàn không phải là sản phẩm bắt nguồn từ Phật Giáo, mà nó đã xuất hiện từ thời cổ đại Ấn Độ khoảng hơn 4,000 năm trước Tây Lịch. Trong Luận Triết Học Upanishads là bộ kinh cuối cùng của nền văn học Vệ-Đà, được dịch là Áo Nghĩa Thư, đã sử dụng khái niệm Niết-Bàn để chỉ trạng thái hòa nhập của linh hồn cá nhân gọi là “Atman” vào với linh hồn vũ trụ“Brahman” . Kinh Vệ-Đà cho rằng con ngườilinh hồn.  Khái niệm linh hồn này gọi là tiểu ngã, là atman. Thời đó, người ta tin có đấng Brahman là một đấng thần linh giống như Thượng đế, Hóa công hay Tạo hóa = God of Creation, Creator, có quyền năng tạo ra vũ trụ và muôn loài. Trong ý nghĩa này Niết-Bàn được đồng nhất với đại ngã Brahman.

            Sau này, trong giáo lý Phật đà, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni cũng sử dụng danh từ Niết-Bàn, nhưng mang nội dung khác biệt so với khái niệm về Niết-Bàn trong Áo Nghĩa Thư. Khái niệm Niết-Bàn trong Phật Giáo được xem như là một cuộc cách mạng trong lịch sử tư tưởng Ấn Độ, đem lại niềm tin tưởng mới, sắc diện mới, cùng sức sống mới cho con người theo lối sống Phật Giáo. Thế nào là sức sống mới, là sắc diện mới? Chúng ta thử cùng nhau tìm hiểu vấn đề này qua chủ đề “Tìm Hiểu Ý Nghĩa ‘Niết-Bàn’ trong Đạo Phật ” như thế nào?

 

II. NIẾT BÀN LÀ GÌ?

            Niết-bàn là chữ phát âm từ nguyên gốc tiếng Sanskrit là Nirvana, tiếng Pāli là Nibbāna.

            - Nir (Niết) nghĩa là “ra khỏi”; vana (bàn) nghĩa là “rừng”. Nirvana nghĩa là ra khỏi khu rừng u mê, tăm tối, phiền não.

            Trong kinh điển Phật Giáo có nhiều từ ngữ ám chỉ Niết-bàn như: Chân như, viên tịch (hoàn toàn vắng lặng), viên giác, vô vi, vô sanh, chấm dứt sanh tửbất tử, cứu cánh, tuyệt đối an tịnh, giải thoát, (qua) bờ bên kia,  không còn trở thành, không thuộc duyên khởi, ngọn lửa hoàn toàn bị dập tắt, đoạn tận toàn bộ tham ái v.v… Những ý nghĩa này nhằm chỉ trạng thái tâm thể hoàn toàn vắng lặng, dứt triệt vô minh phiền não của người đạt đạo.

            Dùng từ ngữ quy ước của thế gian để giải thích hay định nghĩa về một chân lý siêu việt chỉ có thể tạm giải thích ở mức độ tương đối, bởi “thái độ sống” của người đạt đạo, hay “trạng thái tinh thần” của người giác ngộ chỉ có bản thân người đó biết mà thôi, và trạng thái đó thực chất tự nó không có tên gọi, nó là nó, là như vậy, người ta tạm đặt cho nó một cái tên gọi là Niết-bàn. Niết-bàn phải thông qua trí huệ bát nhã. Niết-bàn và trí huệ bát nhãhai mặt của một đồng tiền. Niết-bàn là trạng thái tinh thần của một người đã đạt trí huệ vô sư, và ngược lại bát nhãtrí huệ của người đã chứng đắc Niết-bàn. Người chứng đắc Niết-bàn được xem là một vị toàn giác.

            Mặc dù, Niết-bàn là mục tiêu tu hành nhằm đạt cứu cánh của mọi trường phái Phật Giáo. Nhưng Niết-bàn không phải là kết quả của bất kỳ cái gì. Nếu nó là kết quả thì phải có nhân tạo ra nó. Và nếu như thế, thì Niết-bàn thuộc về pháp duyên khởipháp hữu vi. Những gì thuộc về duyên khởi, hữu vi, vô thường, thuộc pháp thế gian thì chịu luân hồi sinh tử, không đúng với ý nghĩa của Niết-bàn là vô vi, vô sanh, thường hằng, bất tử, vượt ra ngoài hiện tượng thế gian. Với ngôn ngữ thế gian, tạm giảng nghĩa Niết-bàn là trạng thái tâm thức đã thanh lọc hết mọi phiền não, giải thoát tất cả mọi khổ đau, tận diệt hoàn toàn mọi tham ái, không còn sân hậnvô minh. Trạng thái an tịnh tuyệt đối này không còn bị bốn tướng: sanh, già, bệnh, chết chi phối, thoát khỏi luân hồi sinh tử trong ba đường sáu cõi. Trạng thái này có thể đạt được khi con người còn đang sống, thuật ngữ gọi là Hữu Dư Niết-bàn hay Hữu Dư Y Niết-bàn, hoặc khi con người đã chết gọi là Vô Dư Niết-bàn hay Vô Dư Y Niết-bàn.

          

III. CÓ BAO NHIÊU LOẠI NIẾT-BÀN?

        Bản thể tuyệt đối của Niết-bàn là bốn đặc tínhThường-Lạc-Ngã-Tịnh”, trái ngược với đặc tính của hiện tượng thế gian“Vô thường-Khổ-Vô ngã-Bất tịnh”. Do trình độ giác ngộ mỗi người mỗi khác,  nên trong kinh chia ra bốn loại Niết-bàn. Đó là: Hữu Dư Niết-bàn, Vô Dư Niết-bàn, Tự tánh Niết-bàn và Vô trụ xứ Niết-bàn.

         1. Hữu Dư Niết-bàn:  Là trạng thái tâm của các bậc thánh nhân đã dứt sạch phiền não, đoạn tận tham sân si, không còn tái sinh trong ba cõi… Nhưng vì còn sống trên thế gian, còn thân của nghiệp báo dư thừa, nên vẫn phải chấp nhận khổ do chịu nghiệp cũ để lại, gọi là “hữu dư y”. Vì dụ như Đức Phật bị Đề-Bà- Đạt-Ma lăn đá làm chảy máu ngón chân của Ngài, như tôn giả Mục-Kiền-Liên là thánh đệ tử thần thông đệ nhất của Đức Phật bị người ngoại đạo đánh chết, như tôn giả Angulimala dù đã đắc quả A-La-Hán vẫn phải chịu quả báo bị người ta chọi đá bị thương nặng vì nghiệp sát của ông trước khi xuất gia. Như vậy hành giảchứng đắc Hữu Dư Y Niết-bàn chỉ thoát được cái khổ cái đau về thân một cách tạm thời khi an trú sâu trong thiền định.

        2. Vô Dư Niết-bàn: Vị A-La-Hán đã dứt sạch phiền não hữu lậu, tận diệt gốc rễ của ba nghiệp bất thiện tham sân si, xa lìa tất cả si mê, đạt sự tĩnh lặng, chứng Niết-bàn khi còn sống. Sau khi thân hoại mạng chung không còn mang thân nghiệp báo sẽ không còn tái sinh, nhập Vô Dư Niết-bàn. Loại Niết-bàn này trong kinh còn gọi là Bát-Niết-bàn (parinirvãna).

        3. Tự tánh Niết-bàn: Mỗi người chúng ta đều có sẵn thể tánh thanh tịnh sáng suốt tròn đầy, chỉ vì vô minh phiền não che lấp nên tánh sáng không hiển lộ. Khi mê lầm chấp ngã biến mất thì đó là Niết-bàn. Cho nên mới nói Niết-bàn vốn sẵn có, nó không phải là kết quả của tu tập mới có. Nhưng nếu con người không nhận ra tự tánh của mình thì không bao giờ biết được hương vị của Niết-bàn là như thế nào.

         4. Vô trụ xứ Niết-bàn:  Quan niệm mở rộng của Niết-bàn dựa trên khái niệm Bồ-tát [bodhisattva (Skt) hay bodhisatta (P)]. Vô trụ xứ Niết-bànquan niệm Bồ-tát chứng đắc Niết-bàn không trụ vào một nơi, một chốn nào. Khi giác ngộ các Ngài phát nguyện dấn thân vào lục đạo giáo hóa chúng sanh, lấy sanh tử phiền não của chúng sanh làm cảnh giới sống của mình. Các Ngài lao vào biển khổ để cứu khổ mà tâm các Ngài vẫn triệt an tự tại, với phát nguyện rộng lớn: “Bất trụ Niết-bàn, đời đời thừa hành Bồ tát đạo”. Tuy ra vào sanh tử nhưng lúc nào các Ngài cũng tự tại vô ngại như đoạn văn diễn tả trong bài  Bát Nhã Tâm Kinh: “vô sở đắc cố, Bồ-đề-tát-đỏa y Bát nhã ba-la-mật-đa cố,  tâm vô quái ngại, vô quái ngại, cố vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng, cứu cánh Niết-bàn…”.  Ở đây các vị Bồ-tát đã đạt được cứu cánh Niết-bàn, nên tự tại, thong dong ra vào chỗ điên đảo mê muội giáo hóa chúng sanh không gặp trở ngại.

        Tóm lại, Hữu Dư Niết bànVô Dư Niết Bàn theo quan niệm của hệ thống Nam truyền, Theravàda. Còn Tự tánh Niết-bàn và Vô trụ xứ Niết-bàntheo quan niệm của hệ thống Phát triển Bắc truyền.

          

IV. LÀM SAO ĐỂ ĐẠT ĐƯỢC NIẾT-BÀN?

       Chúng ta đã biết Niết-bàn có thể chứng nghiệm được ngay trong xác thân khi chúng ta còn sống trong thế giới hiện tại này. Nhưng tại sao chúng ta không nhận ra nó? Đó là do hằng ngày, lúc nào chúng ta cũng khởi tâm điên đảo, tham ái, phân biệt, chấp trước, chấp ngã, tham sân si, phiền não… Những thứ này đã cắt đứt cội nguồn thanh thản, an vui, giải thoát là Niết-bàn.

       Con người bấy lâu nay đã huân tập không biết bao nhiêu là khổ ưu, phiền não. Tâm phàm phu hoạt động mạnh mẽ che lấp phần tâm linh vắng lặng bình yên vốn có sẵn trong mỗi con người chúng ta. Đối với giáo lý nhà Phật thì con người có thể giải thoát khỏi những khổ đau, sinh tử luân hồi bằng các nỗ lực tự thân tu tập.

- Trước hết phải nên làm những việc lành, tránh hành xử hung ác, và tự thanh tịnh hóa tâm ý của mình như lời Phật dạy trong Kinh Pháp Cú, Phẩm Phật Đà: “Không làm mọi điều ác. Thành tựu các hạnh lành. Tâm ý giữ trong sạch. Chính lời chư Phật dạy”.

            - Học, hiểu rõthực hành bốn chân lý nền tảng của Phật giáo. Đó là bài học “Tứ Diệu Đế”. Đức Phật dạy rằng tất cả chúng sanh sinh ra ở cõi đời này không ai là không khổ. Con người dù giàu hay nghèo đều không thoát khỏi khổ do sinh, già, bệnh, chết chi phối. Không được sống gần gũi với người mình yêu thích, ngược lại phải sống chung hay bị bắt buộc gặp mặt những người mình oán hận không ưa nên khổ. Có ai không hề bị những ưu sầu khổ não trong tâm dày vò?  Và vì chấp thủ năm uẩn nên thân-tâm của con người phải chịu khổ dài dài. Cho nên khổ là sự thật thứ nhất gọi là “Khổ đế”. Các khổ này không phải tự dưng có. Khổ do một hay nhiều nguyên nhân gây ra. Đó là sự thật thứ hai gọi là “Tập đế”. Tất cả những hiện tượng trên thế gian không thực chất tính nên nó vô thường. Với đặc tính này nên khổ hay nguyên nhân của khổ có thể đoạn trừ . Đây là là sự thật thứ ba gọi là “Diệt đế”. Để đạt được cứu cánh thoát khổ Đức Phật dạy 8 phương cách, trong kinh gọi là Bát Chánh Đạo. Đây là sự thật thứ tư gọi là “Đạo đế”. Tám phương cách hay Bát Chánh Đạo của Đạo đế là:

       1) Chánh kiến: Chánh là ngay thẳng đúng đắn, kiến là trông thấy hiểu biết . Chánh kiến là sự nhận thức sáng suốt mọi vấn đề hợp với đạo đức gia đình xã hội. Ở đây, chánh kiến là cái nhìn thấu đáo nhận ra đời sống của người tu tập là phải lìa xa những việc xấu ác hại người, luôn thực hành những điều thiện lành có lợi cho mình và cho người. Nhận ra bốn chân lýĐức Phật đã giảng dạy thành công cho các vị đệ tử, đó là “Tứ Diệu Đế”.

      2) Chánh tư duy:  Là suy nghĩ chân chánh, hợp với lẽ phải, hiểu rõ thuyết nhân quả, hiểu rõ nỗi khổ nào cũng có nguyên nhân. Thông suốt ý nghĩa “Tứ Diệu Đế”.

     3) Chánh ngữ: Lời nói chân thật không gian dối, công bình, có ích lợi cho việc tu thân tích đức. Lời nói nhẹ nhàng không hung dữ gây tổn thương người khác.

     4) Chánh Nghiệp: Những hành động có tác ý hằng ngày cần phải sáng suốt, từ bi, không hại người, hại vật, hại môi trường. Giữ ba nghiệp thân khẩu ý luôn được trong sạch.

      5) Chánh mạng: Nuôi thân mạng mình bằng nghề nghiệp chân chánh. Không hành nghề đồ tể giết thú vật, không bán chất say nghiện, không hành nghề chế tạo vũ khí giết người, không buôn bán hàng lậu, quốc cấm v.v… Giữ gìn thân thể khỏe mạnh bằng cách ăn uống điều độ, tránh xử dụng những chất kích thích gây ghiền nghiện có hại cho sức khỏe. Tránh ăn những món liên hệ đến nghiệp sát sinh. Ngủ nghỉ đầy đủ giúp tinh thần được an ổn khỏe khoắn v.v…

     6) Chánh tinh tấn: Siêng năng, chuyên cần một cách chân chính thẳng tiến đến mục đíchlý tưởng mà Phật đã dạy. Hăng say làm việc chánh đáng tốt lành mang lợi ích cho người và cho mình. Tránh làm những điều xấu ác lợi mình, hại người.

      7) Chánh niệm: Nhớ, nghĩ, biết chân chánh. Ở đây chánh niệm có nghĩa là cái “biết chân chánh”. Biết chân chánh là “biết không lời nói thầm trong não” tức là cái biết không có sự chen vào của Ý Căn, Ý Thức hay Trí năng (tâm ba thời)… mà là sự nhận biết trong sáng của tánh giác. Đó là cái biết “đang là” khi giác quan tiếp xúc đối tượng. Cho nên chánh niệm có thể hiểu là “cái biết ngay bây giờ và ở đây”.

      8) Chánh định: Tu tập thiền định. Thực tập từng bước một. Ban đầu tập thiền chỉ (Samatha) còn có chú tâm chú ý một đối tượng để gom tâm về một mối. Bước thứ hai là “thầm nhận biết đối tượng”, tức chủ đề thực tập. Bước thứ ba là “chánh niệm tỉnh thức”, biết tất cả những gì xảy ra trên thân tâm và môi trường bên ngoài nhưng không dính mắc (ly hỷ trú xả). Bước thứ tư tâm hoàn toàn yên lặng,  ngôn hành (tầm tứ) yên lặng, ý hành (thọ tưởng) yên lặng, thân hành (tịnh tức) yên lặng. Chánh địnhthực tập thiền định theo đúng chánh pháp, tuần tự trải qua bốn tầng định. Tầng định cao nhất là “Định bất độngtương ưng với Chân Như định, hay Vô trụ định. Bấy giờ trí huệ bát nhã phát huy.

       Giáo lý  đưa đến việc thực hành “Bát Chánh Đạo” này được quy thành ba môn học: Giới, Định, Huệ. Thực hành Giới và Định đưa tới trí huệgiải thoát khỏi sự vô minh mê muội, dẹp được khổ đau vì ích kỷ đạt tới cảnh giới Niết-bàn. Giới ở đây là Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, Định là Chánh niệm, Chánh định, Huệ là Chánh kiến, Chánh tư duy. Chánh tinh tấn thì có mặt trong tất cả Giới, Định, Huệ.

         

V. GÚT LẠI

      Niết-bàn không phải là một nơi chốn, không phải là cảnh giới trong không gian hay thực tế ngoài đời.  Niết-bàn không ở trên trời, không ở trong mây, trong trăng, trong sao. Niết-bàn không ở trên cành cây, ngọn cỏ, hoa lá. Niết-bàn không ở dưới lòng đất hay trên sông hoặc ngoài biển lớn. Niết-bàn không ở đâu cả. Nếu vậy, chẳng lẽ Niết-bàn là hư vô là không thực có? Không phải thế! Niết-bàn có thật mà không ở đâu cả, nó chỉ được nhận ra qua tâm của người giác ngộ. Tạm ghi lại một vài điều do các bậc Thầy Tổ kinh nghiệm cho biết thì:

       - Về mặt siêu hình, Niết-bàn là sự giải thoát mọi khổ đau. - Về mặt tâm lý, Niết-bàn đoạn trừ lòng ích kỷ của bản ngã, giải thoát mọi tri kiến, đạt tứ vô lượng tâm: từ, bi, hỷ, xả.  - Về mặt đạo đức, Niết-bàn đoạn tận toàn bộ lậu hoặc tham sân si…

     Như vậy Niết-bàn là một đạo quả, một chứng ngộ, một trạng thái tinh thần với trí tuệ rốt ráocon người đạt được. Đó là sự thành tựu tối thượng của sự chuyển hóa nhận thức, từ quy ước sang nhận thức tối hậu vượt ra khỏi biên giới thế gian. Niết-bàn là trí tuệ rốt ráo (bát nhã) được biểu lộ qua sự thoát khổ, giác ngộ, giải thoát của một bậc chứng đạo, ra khỏi vòng luân hồi sinh tử./.

THÍCH NỮ HẰNG NHƯ
(Chân Tâm thiền đường - August 20-2020)
Ý kiến bạn đọc
30 Tháng Tám 202012:50 SA
Khách
Cám ơn Ni sư đã giải thích về chủ đề trên. Chúc Ni Sư vui vẻ và an lạc.
Tâm Hùng
24 Tháng Tám 20205:51 CH
Khách
Tâm Hùng mến;
Kinh Tạp A-hàm, ĐP dạy: "Sự tận diệt tham, tận diệt sân, tận diệt si (vô minh) đó gọi là Niết-bàn"-Trường Bộ kinh, Kinh Đại Bát Niết-bàn ghi: "Niết-bàn là giải thoát tham sân, si". Muốn không còn tham, sân, si thì hành giả phải đoạn trừ "chấp ngã" (không còn dư tàn). Hòa Thượng Thích Thiện Siêu cũng giảng rằng: "Vô Ngã là Niết Bàn". Bài viết của Ngài đăng trên trang nhà Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam. Tâm Hùng có thề đọc thêm chi tiết hơn.
Còn nếu đã chắc chắn đạt được 8 định, không còn tham sân si, thì lẽ ra hành giả đạt được trạng thái NB như trong kinh mô tả, nhưng đạt được 8 định mà vẫn nằm trong tiến trình luân hồi theo lý mà nói thì các hành giả đó vẫn còn dính mấc còn đắm chìm trong hỷ lạc. Dính mấc thích thú chính là nguyên nhân cho việc tái sanh vì vẫn còn cái ngã, cái ta chìm đấm mong muốn. Theo Cò, thì Câu trả lởi ở đây là cần phải tu tập thiền định và thiền quán. Thiền định giúp tâm yên lặng (lậu hoặc cũ nằm yên, lậu hoặc mới không khởi động) còn thiền Quán (Huệ) giúp tâm nhận thức về vô thường, khổ, vô ngã không bị dính mắc với các pháp hữu vi, lìa xa (xuất ly) vối mọi tham luyến hiện tiền. Được như thế trạng thái NB có cơ hội thành tựu. Chúc Tâm Hùng vui vẽ hạnh phúc.
23 Tháng Tám 20206:24 SA
Khách
Ni sư kính mến,
Một hành giả có dạt được bát định thì vẩn nằm trong tiến trình luân hồi thì thiền định có đưa hành giả đến trang thái niết bàn không? Kinh nhờ Ni sư giải thích.
Chúc Ni sư an lạc.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
03 Tháng Mười Một 202311:52 SA(Xem: 1304)
Vì căn cơ chúng sanh khác nhau, nên Đức Phật phương tiện thuyết ngũ thừa để giúp chúng sanh dần đạt được giải thoát tối hậu. Ngũ thừa Phật giáo ví như 5 loại xe: Nhân thừa và Thiên thừa - Thanh-Văn thừa, Duyên-Giác thừa và Bồ-Tát thừa
31 Tháng Mười 20233:40 CH(Xem: 1183)
Und wenn wir diese Weisheit erlangt haben, haben wir keinen Bedarf mehr an einem Weg, an ein Dharma oder an eine Tür, die zur Weisheit öffnet, da wir schon drin sind, in unserem natürlichen Haus.
26 Tháng Mười 202312:55 CH(Xem: 1152)
VIDEO Phóng Sự Kỳ Đo Não Bộ Hòa thượng THÍCH THÔNG TRIỆT tại Đại học Tuebingen Đức Quốc năm 2013 - Giới thiệu: Quang Chiếu - Quay phim: Tuệ Nguyên - Edit: Chúc Hải
17 Tháng Mười 202311:23 SA(Xem: 1984)
Trong cái thấy, chỉ là cái thấy; trong cái nghe, chỉ là cái nghe; trong cái thọ tưởng, chỉ là cái thọ tưởng; trong cái thức tri, chỉ là cái thức tri.
10 Tháng Mười 20239:31 CH(Xem: 1458)
Stuttgart est une petite ville du sud de l'Allemagne. La retraite étant bilingue allemand-vietnamien, M. Tuong Bach, Mme Minh Tuyen et Minh Kien assuraient la traduction simultanée à tour de rôle. Il y avait environ 25 méditants, venant de nombreux endroits. De Paris, ils avaient voyagé en train. De Berlin, ils s’étaient regroupés pour venir en voiture. De Goslar, ils avaient fait environ 8 heures de route pour venir au monastère.
03 Tháng Mười 202310:36 SA(Xem: 1411)
Die Weisheit, über die ich hier sprechen will, ist ein Vipassanā. In diesem Artikel möchte ich die Grundlagen der Achtsamkeit in dem Nikāya-Sutra untersuchen. Heute klassifizieren viele Ehrwürdige das Satipatthana Sutra als ein Vipassanā, also eine Weisheit. Aus diesem Grund betrachte ich in diesem Artikel das Wort Vipassanā als eine Weisheit. Eine Weisheit für die Praxis.
26 Tháng Chín 20234:27 CH(Xem: 1871)
Trên bước đường tu theo Phật, “Hạnh buông xả” đóng một vai trò vô cùng quan trọng, là pháp tu cần thiết trong đời sống hằng ngày của người cư sĩ cũng như của người xuất gia tu hành giải thoát. Vậy thế nào là “Hạnh buông xả”?
19 Tháng Chín 20237:54 CH(Xem: 1899)
Bản thể của thế gian là trống rỗng, trống không, là như huyễn mà thôi. Tuệ trí này là năng lực khiến tâm xa rời dính mắc tất cả thế gian, bấy giờ mới an trú chánh niệm Như Vậy. Khi mình có tuệ trí thông suốt bản thể thế gian rồi thì không còn con đường, không cần pháp môn, không còn thấy có cổng nào nữa. Mình thực sự đang ở trong nhà của mình, tự thuở nào cho tới bây giờ.
12 Tháng Chín 202312:56 CH(Xem: 2122)
Bốn tầng Thiền qua đó đức Phật phát huy ba minh còn được gọi là bốn tầng Định, do đó mình hiểu Định có một vai trò quan trọng trong Thiền Phật giáo, xem như Định là cây cầu phải bước qua mới có thể khám phá tới khung trời bao la của trí tuệ bát nhã.
26 Tháng Tám 20232:36 CH(Xem: 2038)
Tuệ ở đây mình muốn nói tới Vipassanā, Tuệ Minh sát. Trong giới hạn bài này, mình bàn tới bài Kinh Niệm Xứ, trong kinh Nikāya. Mặc dù thông thường người ta vẫn nói “Quán Tứ niệm xứ”, trong bài kinh cũng nói “Quán thân” (Kāya-anupassanā) v.v…nhưng hiện nay các vị tôn đức xếp bài kinh Niệm xứ là Vipassanā, là thuộc Tuệ. Cho nên trong bài này, mình cũng tạm nói là Tuệ, tức là dùng tuệ thực hành...
20 Tháng Tám 202310:54 SA(Xem: 2390)
Nói tới Quán, có vài loại Quán hơi khác nhau, trong bài này chỉ xin nói tới loại Anupassanā, nghĩa thông thường là nhìn ngắm hiện tượng thế gian liên tục để nhận ra bản thể hay đặc điểm của hiện tượng thế gian là: vô thường, khổ, vô ngã. Vậy mình cũng có thể hiểu Quán là quan sát hiện tượng thế gian bằng con mắt trí tuệ.
14 Tháng Tám 202311:20 SA(Xem: 1835)
Muốn đạt được kết quả tốt, người thực hành phải hội đủ 5 tiêu chuẩn cần thiết: Tự lực, Nhu cầu, Quyết tâm, Lý thuyết, và Lý luận. Đây là 5 tiêu chuẩn lập thành hệ thống lý luận thực tiễn trong việc thực hành Thiền Phật giáo. Muốn điều chỉnh thân, cải tạo tâm, cân bằng thân-tâm, và phát huy trí tuệ tâm linh có hiệu quả, 5 tiêu chuẩn nói trên không thể tách rời nhau được.
09 Tháng Tám 202312:40 CH(Xem: 2113)
Cốt lõi là cái tinh túy, cái tinh ba. Chớ không phải cái bề ngoài. Nếu so với cái cây, nó không phải là lá cây, cành cây.v.v. mà là cái lõi bên trong của cây. Cái cốt lõi đó phải ngắn gọn, mới gọi là cốt lõi. Mà trong đạo Phật có nhiều cốt lõi lắm. Tại sao vậy?
02 Tháng Tám 20238:44 CH(Xem: 2090)
Chư Tổ Phát Triển thường nói có tới 84 ngàn pháp môn tu, tức là có vô số cổng để bước vào ngôi nhà giác ngộ, hay ngôi nhà giải thoát. Hôm nay chúng ta thử khảo sát cánh cổng của Giới.
31 Tháng Bảy 202310:00 SA(Xem: 1544)
“Ngũ uẩn giai không” trong lời dạy này của đức Phật, là khi giác quan tiếp xúc với đối tượng, tâm hành giả biết nhưng không phản ứng thích thú hay chán ghét, tâm không nói thầm về đối tượng, thì Tánh biết có mặt. Tánh biết là cái biết rõ ràng lặng lẽ, trong sáng, khách quan, là cái lóe sáng đầu tiên của Tánh giác. Lúc bấy giờ toàn bộ ngũ uẩn yên lặng, không có cái Ta, cái của Ta hay Tự ngã của Ta trong đó, hành giả thoát khỏi mọi lậu hoặc, khổ đau.
17 Tháng Bảy 20231:44 CH(Xem: 1431)
Dès la clôture de la retraite bouddhique à Berlin, notre groupe de bhikkhunis - Nhu Minh, Nhu Sen et moi-même - a pris le lendemain, 19 mai, l'avion pour Paris. Le 20 mai au matin, la retraite de courte durée y a commencé, durant 3 jours, samedi, dimanche et lundi. Ce stage est également bilingue français-vietnamien avec la présence de quelques francophones qui écoutaient en direct l’enseignement à l’aide des écouteurs personnels. Ainsi la traduction ne gênait personne, et le cours se déroulait normalement comme d'habitude.
12 Tháng Bảy 20234:15 CH(Xem: 1942)
KINH VĂN : Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh. bao gồm bản Hán Việt, bản dịch nghĩa, bản Anh ngữ & Pháp ngữ
05 Tháng Bảy 20239:06 SA(Xem: 1109)
Như vậy con thuyền để chuyên chở mình đi trên giòng sông tâm linh là Tánh nguyên tắc. Mình phải cương quyết, với ý chí dũng mãnh giữ gìn những nguyên tắc sống thích hợp với những chân lý mà Đức Phật dạy. Đó là Tánh nguyên tắc trong thiền.
13 Tháng Sáu 20237:59 CH(Xem: 1609)
Hòa Lan, thành phố đông người trần tục hay vườn hoa thiên nhiên với con người an vui thanh thản?
11 Tháng Sáu 20234:39 CH(Xem: 1363)
Le 4 mai commençait la retraite dans un centre de la ville de Moissac. Cet endroit, situé sur une haute colline tranquille ayant abrité déjà plusieurs retraites bouddhiques, était un ancien couvent carmélite, aujourd’hui transformé comme lieu de villégiature pour touristes. La Sangha de Toulouse a toujours été composée davantage de pratiquants français que vietnamiens, d’où la nécessité d’organiser la retraite en bilingue. Tout le monde doit rester sur place, car c'est loin de Toulouse.
05 Tháng Sáu 20236:34 CH(Xem: 1657)
Trường Bộ Kinh Digha Nikaya 16. Kinh ĐẠI BÁT-NIẾT-BÀN (Mahàparinibbàna sutta)
30 Tháng Năm 20234:42 CH(Xem: 1158)
Trong tiếng Pāli, từ mano hay Ý có nghĩa tâm hay tư tưởng tương đương trong tiếng Anh là “mind” hay “thought”. Trong A Tỳ Đạt Ma (Abhidharma), mạt na dùng để chỉ đồng nghĩa với THỨC (viññāna: consciousness) và TÂM (citta: mind, state of consciousness)
29 Tháng Năm 20233:10 CH(Xem: 1234)
Theo quan niệm của Phật giáo thì Niết-bàn là trạng thái tâm thanh tịnh tuyệt đối, nghĩa là tâm dập tắt hoàn toàn ngọn lửa tham, sân, si. Người đạt được trạng thái Niết-bàn là người có thái độ sống an nhiên tự tại “thường, lạc, ngã, tịnh” ngay trong vòng xoáy “Vô thường, bất toại nguyện và vô ngã” nơi thế gian này!
20 Tháng Năm 20232:10 CH(Xem: 1307)
Liebe Freunde, ein Kochrezept zubereiten ist nichts anderes als eine Kultivierungsübung. Um zu überleben, essen wir und praktizieren wir. Daher sind die Prinzipien für eine gute Küche quasi die Prinzipien für eine gute Praxis. Kurz gesagt, alles, was wir tun, ist eine Kultivierung. Der Lebensweg ist auch der Kultivierungsweg. Alles ist abhängig von unserem Geist. Wie er das Objekt wahrnimmt, ist es das Reich, in dem wir leben.
16 Tháng Năm 20239:48 CH(Xem: 1622)
Khóa Tu Thiền Tập Đơn Giản Để Sống An Lạc từ 14 đến 19 tháng 4 năm 2023 tại Chùa Tích Lan, Ontario.
16 Tháng Năm 20237:21 CH(Xem: 1201)
Người “Sống Tùy Duyên Thuận Pháp” là người có tu tập theo lời Phật dạy. Một trong những pháp người đó thực hành là giữ chánh niệm trong bốn oai nghi đi, đứng, nằm, ngồi, hay khi làm bất cứ điều gì, cũng làm trong chánh niệm.
69,256