Triệt Như - Tâm Tình Với Nhau - Bài 12
Một hôm, lướt qua đầu một quyển sách của vị thiền sư hiện đại- Ajahn Brahm- cô đọc vài hàng “....cuộc đời là những xung đột, bất toại nguyện ....” , nhớ tới 4 chân lý phổ thông, ai là người con Phật chắc đã biết. Tứ Diệu đế. Phải rồi, thế gian này, từ ngàn xưa, bây giờ và mãi về sau nữa, con người ai cũng trải qua biết bao nhiêu là đau khổ. Khổ về thân, bệnh tật, già yếu, rồi chết, rồi lại sinh ra. Tâm cũng chịu biết bao nhiêu cay đắng: lúc thương, lúc ghét, lúc hối hận, lúc ngậm ngùi... Mà thân đau lại ảnh hưởng tới tâm, làm cho tâm khổ. Còn tâm không toại nguyện cũng chi phối tới thân, làm cho thân thêm đau.
Nói chung lại, Khổ là một cái bệnh muôn đời của con người. Đức Phật phân tích ra thật rõ ràng, những nổi khổ của con người không ra ngoài 13 loại này: sinh, già, bệnh, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não, ái biệt ly, oán tăng hội, cầu bất đắc, chấp thủ ngũ uẩn.
Nguyên nhân vì đâu ? Cái khổ thứ 12 có thể trả lời: tại vì mình mong muốn mà không được như ý nên khổ. Cũng nói là vì Tham, là vì Ái, cũng là Dục, là vì dính mắc quá nhiều với hiện tượng trên thế gian. Tuy nhiên, tham, ái hay dục chỉ là biểu hiện của một chủ thể, đó chính là cái Ngã. Cái khổ thứ 13.
Vì tưởng rằng mình có thiệt, nên sinh ra tham đắm, lo tích lũy tiền bạc, để bồi dưỡng thân với ăn, với ngủ, với vui chơi, lo đạt tới danh vọng quyền lực, lo chiếm lấy nhiều kiến thức, địa vị, để cái ngã được nhiều người biết tới. Hễ được danh thì sẽ được lợi. Hai cái này thường đi đôi với nhau. Đây là chân lý thứ 2.
Chân lý thứ 3: Biết được nguyên nhân thực sự của khổ rồi thì mới biết phương thức thoát khổ. Vậy thì bài toán khổ đã có giải pháp rõ ràng: không tham, không ái, không dục, không dính mắc là không khổ. Còn lý luận nào logic hơn.
Cũng nói gọn lại: biết Không Ta / vô ngã là thoát khổ. Biết tức là trí tuệ. Không phải vô minh. Hễ vô minh là đau khổ. Vô minh đồng nghĩa với Đau khổ. Cho nên ai còn đau khổ là còn vô minh.
Vậy hạnh phúc là trí tuệ. Có trí tuệ là có hạnh phúc. Tuy nhiên, trong nhà Phật không nói hạnh phúc. Cái chữ “Hạnh phúc” là ngôn ngữ thế gian. Trong kinh chỉ nói: hỷ lạc, an lạc, thoát khổ, hay giải thoát hay niết bàn. Hễ thoát ra khỏi biển khổ, thì là đạt được trạng thái vắng lặng tịch diệt, an nhiên tự tại, vào ra 7 cảnh giới tự do. Đó là A la hán đạo hay Bồ tát đạo, hay Phật đạo.
Cuối cùng làm sao đạt được kết quả đó ? Con đường đi chung của 3 thừa đó là con đường mòn mà chư Phật 3 đời đã đi: Bát Chánh đạo.
Mở đầu là Chánh kiến. Nói lên địa vị quan trọng của Trí Tuệ.
Gút lại, tiến trình tu phổ biến là: Giới- Định- Huệ.
Huệ là 1 tiến trình, nghĩa là có vô số mức độ phát huy Huệ.
Mức độ ban đầu của Huệ, học từ những chân lý qua Đức Phật dạy, tạm gọi là Tuệ Trí (insight), có thể tương đương với chánh kiến. Mức độ cao hơn là những tiến trình phát huy, kiến giải sâu sắc hơn, trong Thiền tông tạm nói là: Ngộ, chứng ngộ (realization), triệt ngộ, đại ngộ (enlightenment). v.v...
Tuệ trí thì cần có trí năng tỉnh ngộ để học Phật pháp, nghe hiểu, suy tư thêm. Còn những tiến trình chứng ngộ, triệt ngộ, đại ngộ thì tâm phải hoàn toàn vắng lặng, mới may mắn trãi nghiệm khi mình bị bế tắc vì những vấn đề nào đó. Đúng khi tâm rơi vào trạng thái Định thì tiềm năng giác ngộ có thể bật ra kiến giải.
Vậy Định là điều kiện cần để phát huy Huệ. Định là phương tiện để phát huy Huệ, không phải là mục tiêu cuối cùng của con đường.
Bài kinh “Cội rễ sự vật”, trong Tăng Chi bộ, Phật nói:
1) "Này chư Hiền, các pháp lấy dục làm căn bản.
2) Tất cả pháp lấy tác ý làm sanh khởi.
3) Tất cả pháp lấy xúc làm tập khởi.
4) Tất cả pháp lấy thọ làm chỗ tụ hội.
5) Tất cả pháp lấy định làm thượng thủ.
6) Tất cả pháp lấy niệm làm tăng thượng.
7) Tất cả pháp lấy tuệ làm tối thượng.
8) Tất cả pháp lấy giải thoát làm lõi cây".
Kết luận lại, con đường tu đã được đức Phật trình bày thật rõ ràng, dứt khoát, lý luận thật vững chắc, không ai bắt bẻ được. Thời xưa cho đến nay, Tứ Diệu Đế vẫn được xem như là con đường tu quan trọng khuôn mẫu để ra khỏi cảnh đời đau khổ trần gian.
Vậy mà tại sao chư Tổ xếp Tứ Diệu Đế vào Tục Đế Bát nhã ?
Tổ Đình
16- 5- 2020