KHÁI NIỆM VỀ “BA CỬA GIẢI THOÁT”
TRONG PHẬT GIÁO
Thích Nữ Hằng Như
Giải là gở ra, tháo ra, cởi ra. Thoát là vượt khỏi sự ràng buộc, được tự do.
Giải thoát trong đạo Phật là trạng thái tâm thoát khỏi mọi ràng buộc khổ đau, mọi ảo tưởng về “cái ta, của ta, tự ngã của ta” do tập khí tham, sân, si (vô minh) mang đến. Nghiêm trì giới luật, thiền định, thiền quán, khai mở trí tuệ, thực nghiệm tâm linh để thoát khỏi vòng luân hồi sinh tử, đạt tới giác ngộ giải thoát, an trú trong cảnh trí Niết-bàn. Đức Phật là người thể hiện được việc giải thoát đó một cách hoàn hảo. Và Ngài đã đưa ra nhiều phương pháp hữu hiệu hướng dẫn mọi người tu tập thoát khỏi biển khổ.
Người không tu tập, sống trong đời luôn bám víu vào thành kiến, tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến, luôn chấp ngã, chấp pháp... Những tập khí này là nguyên nhân gây đau khổ và luân hồi sanh tử. Muốn giải thoát khỏi phiền não khổ đau từ đời này qua đời khác, hành giả phải đoạn trừ tận gốc các nguyên nhân gây khổ nêu trên. Đức Phật dạy nhiều phương pháp giải thoát, trong đó Ngài có nhắc đến “ba cánh cửa giải thoát” là: Không giải thoát môn, Vô tướng giải thoát môn, Vô tác giải thoát môn. Hành giả nào vào được một trong ba cánh cửa này là người đó thoát khỏi biển khổ luân hồi sanh tử, ra khỏi Tam giới.
I. KHÔNG MÔN
Cánh cửa giải thoát thứ nhất là “Không”. Nói cho đủ là “Không Tánh” hay “Tánh Không”. Không tánh (Skt: Sunyatà/Emptiness) là thực tánh của các pháp. Các pháp hiện hữu trên thế gian đều do nhiều duyên, nhiều điều kiện hội tụ mà thành. Khi các duyên không còn tồn tại thì hiện tượng đó cũng biến thành Không. Như vậy vạn pháp không thực chất tính nên nó chỉ hiện hữu tạm thời và phụ thuộc vào các yếu tố duyên sinh. Nhờ quán “duyên khởi” mà hành giả nhận ra bản thể của vạn pháp là Không tức Tánh không. Trong Phật giáo Tánh Không, không có nghĩa là phủ định sự hiện hữu của các pháp, mà là sự nhận thức rằng sự hiện hữu của chúng chỉ là tạm thời và phụ thuộc vào các yếu tố duyên sinh nên thực chất của pháp là trống không, trống rỗng, theo quy luật “Sanh-Trụ-Hoại-Không”.
Thí dụ: Đóa hoa hồng được tạo bởi nhiều cánh hoa và nhụy hoa. Nếu tách rời các cánh hoa và nhụy hoa ra, thì không còn đóa hoa hồng nữa. Vậy bông hồng có mặt là do sự kết hợp của nhiều cánh hoa, nhụy hoa, chứ nó không độc lập, không thực thể, cho nên cái tên gọi là đóa hoa hồng chỉ là giả danh. Tuy đóa hồng không có thực tánh, nhưng đóa hồng vẫn hiện hữu, điều này không thể phủ nhận. Thế nhưng sự hiện hữu này không vĩnh viễn, vì nó sẽ biến mất khi duyên tan rả, cho nên bản thể của hoa hồng là Không hay là Tánh Không.
Từ suy niệm trên, chúng ta có thể nhận thức được rằng tất cả các hiện tượng thế gian, trong đó bản thân ta, hạnh phúc hay đau khổ, thành công hay thất bại, vinh hay nhục... tự chúng đều không thực tánh nên chúng vô ngã, trống không, giả danh, giả tướng, nên kinh nói bản thể của vạn pháp là Không. Không đây là “Tánh Không” chứ không phải là “không phủ định, đối đãi với có”.
Pháp duyên khởi hay Tánh Không là pháp thực tập cần thiết giúp hành giả bước vào cửa giải thoát. Chính vì thế nên Đức Phật nói rõ rằng: “Ai thấy duyên khởi là thấy pháp. Thấy pháp là thấy ta. Và ta có ra đời hay không thì pháp duyên khởi vẫn thế!”. Vậy muốn vào được Cửa Giải Thoát Không, thì hành giả phải quán duyên khởi.
Tóm lại Không Môn là cửa giải thoát dựa trên trí tuệ quán chiếu mọi pháp đều do duyên khởi, không có tự tính cố định, nên nó có thể biến mất khi duyên tan rả. Tuệ giác về Tánh Không giúp hành giả không còn dính mắc với khái niệm đúng sai, không còn bám víu với mọi thứ bị xem là không bền vững ở trên đời nữa. Đặc biệt không tự nhận tấm thân kết hợp bởi năm uẩn này là “tôi” là “của tôi” là “tự ngã của tôi” nên hành giả hoàn toàn được tự do trước mọi phiền não khổ đau.
II. VÔ TƯỚNG MÔN
Vô tướng (Skt: Animitta/Sign-less-ness), nghĩa là không có hình dáng, tướng mạo cố định.
Tất cả vạn vật trên đời đều do duyên khởi, nên không thực chất tánh, tức không có ngã riêng, vì thế vạn vật đều không có hình tướng (tướng/sign) thường hằng riêng biệt. Ngay cả tấm thân của con người cũng thay đổi theo thời gian. Khi còn trẻ nhìn khác. Lúc trung niên nhìn khác, và khi về già thì hình dáng hoàn toàn thay đổi khác. Nhìn chung, các pháp liên kết tạm thời bằng các nhân duyên, các pháp sẽ bị hoại diệt khi nhân duyên không còn. Người bình thường nhìn thấy đối tượng trước mắt, còn người trí thì nhìn đối tượng mà thấy được cái Vô tướng của đối tượng.
Như đã nói trên, đóa hoa hồng không có tự tánh riêng biệt, nó không có một hình dáng, một tướng trạng nhất định, không có sự đồng nhất với chính nó, vì thể tánh của nó là vô tướng (do nhiều thứ hợp lại mà thành), mặc dù đóa hoa hồng vẫn hiện hữu trong thế giới bình thường.
Từ đó, suy ra tất cả các hiện tượng cũng đều do nhân và duyên hợp, nên không có tướng mạo nhất định gọi là vô tướng. Nhờ thiền quán về Vô tướng, hành giả không bám víu vào hình tướng, không chấp vào một cực đoan nào cả, do đó vượt qua được những đối đãi nhị nguyên. Gặp nghịch cảnh hay thuận cảnh, hành giả đều an nhiên tự tại trong lòng. Thuận cảnh không làm hành giả đam mê, tham lam thêm, vì biết rằng nó không còn mãi. Nghịch cảnh không làm hành giả sân hận, bởi nghịch cảnh đó sẽ trôi qua. Không dính mắc với các chướng ngại này, hành giả bước vào cổng giải thoát Vô tướng. Bấy giờ tâm của vị ấy được thảnh thơi, tự tại.
III . VÔ TÁC MÔN
Vô tác (Skt: Apranihitala/Wish-lessness) nghĩa là không tạo tác, không làm ra điều gì, còn gọi là Vô nguyện (wishlessness) hay Vô cầu, nghĩa là không mong cầu, không mong muốn gì cả. Suy nghĩ về Vô nguyện/Vô tác/Vô cầu là suy nghĩ về các kết quả, các ước nguyện đều không có tự tánh, nên không mong cầu, không ham muốn, không tạo tác thêm điều gì nữa.
Vô tác trong Phật giáo, không có nghĩa không làm cái gì cả, mà là khi làm việc gì cũng không bị ràng buộc bởi mục đích, sở hữu hay mong cầu kết quả cá nhân. Như các vị Bồ tát vào đời làm những việc lợi ích cho chúng sanh, thân tâm các Ngài ở trạng thái Vô tác. Sự tạo tác này là không khởi tâm động niệm, không phân biệt, không chấp trước trong khi hành sự. Nói cách khác là hành động theo lẽ tự nhiên, không bị chi phối bởi dục bọng hay ý niệm về “ta” và “của ta”.
Trên con đường tu tập, hành giả quán chiếu thấy rõ vạn hữu do duyên khởi, chúng vô thường biến dạng, nên hành giả không còn bám víu với bất cứ điều gì. Nhờ vậy tâm bình thản, an nhiên trước những biến cố xảy ra trong cuộc đời. Sống với trạng thái Vô Cầu là sống toàn tâm toàn ý với giây phút hiện tại, không tiếc nuối quá khứ, không ước nguyện điều gì trong tương lai. Khi đã biết mọi thứ đều vô thường thì đâu cần phải ước nguyện những điều vô thường đó làm gì. Đây là con đường để thoát khỏi mọi ràng buộc của ý niệm, đạt đến trạng thái giải thoát mọi phiền não.
IV. KẾT LUẬN
Giải thoát của Phật giáo không do sự mặc khải, ban phát của một vị thần linh nào, mà do sự cố gắng nỗ lực hành trì tu tập giáo pháp “gieo Nhân gặt Quả”. Ba cửa giải thoát là pháp quán nhằm giác ngộ Tánh Không, Vô tướng và Vô nguyện. Thể nhập được một trong ba cửa giải thoát này, hành giả sẽ trải nghiệm được “hiện tại lạc trú” nghĩa là sống an lạc ngay trong hiện tại.
Tóm lại, Ba cánh cửa giải thoát “Không, Vô tướng, Vô tác” là trí tuệ siêu vượt của Đức Thế Tôn trao truyền cho người hữu duyên. Đây là sự quán chiếu sâu sắc vê “duyên khởi, tánh Không, vô thường, vô ngã và Niết-bàn”. Thấy sâu được bình diện hiện tượng trước mặt, là thấy được bình diện bản thể của vạn pháp là trống không, là vô tướng, nên không còn muốn tạo tác mong cầu điều gì ngoài việc sống chánh niệm trong hiện tại bây giờ và ở đây.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật...
THÍCH NỮ HẰNG NHƯ
(Sinh hoạt với Hội TTK Texas, Ngày 02-11-2025)

