CHÁNH NIỆM TRONG ĐỜI SỐNG
1- Tầm quan trọng của Chánh niệm:
Chánh niệm là trung tâm của sự thực hành trong đạo Phật, là một trong tám chi phần của Bát Chánh Đạo : Chánh niệm dẫn đến Chánh định và Chánh kiến.
Bài thuyết giảng đầu tiên của Đức Phật về Chánh niệm là bài Kinh "Người biết sống một mình".
Đừng tìm về quá khứ, đừng tưởng tới tương lai,
Đừng tìm về quá khứ, đừng tưởng tới tương lai,
Quá khứ đã không còn, tương lai thì chưa tới.
Hãy quán chiếu sự sống, trong giờ phút hiện tại.
Kẻ thức giả an trú, vững chãi và thảnh thơi.
Phải tinh tiến hôm nay, kẻo ngày mai không kịp,
Cái chết đến bất ngờ, không thể nào mặc cả.
Người nào biết an trú, đêm ngày trong chánh niệm,
Thì Mâu Ni gọi là, người biết sống một mình
2- Thế nào gọi là có Chánh niệm:
Niệm (sati): là nhớ, nhưng không phải là ghi nhớ, cũng không phải là tưởng nhớ, mà Niệm là nhớ về, là nhận biết. Ngược lại với Niệm là Thất niệm, (hay ngôn ngữ bình dân là quên/không nhớ/không biết). Nếu chúng ta thường xuyên hay bị quên/không nhớ/không biết mình đang làm gì nghĩ gì, nói gì - dù ta có trí não bình thường - thì nghĩa là ta thường xuyên bị thất niệm.
Chánh: là ngay thẳng. Chánh niệm là trở về/nhận ra và sống với cái Biết của tâm ngay thẳng tĩnh lặng, trong sáng (ly dục, ly bất thiện pháp), khách quan (không chấp ngã, chấp trước).
Ngược với Chánh là Tà (nghiêng). Nên cũng có thể nói, ngược với Chánh niệm là Tà niệm. Đó là khi ta nhận biết sự việc bằng tâm dính mắc (tham ái, ái dục), chủ quan (chấp ngã, chấp trước). Tà niệm che mờ việc có chánh niệm.
Trên thực tế, chánh niệm có nhiều mức độ. Khi tâm càng trong sáng khách quan, không dính mắc vào bất cứ đối tượng nào, thì cái biết hay sự tỉnh giác càng sáng tỏ, chánh niệm càng trọn vẹn.
*Các ví dụ phân biệt giữa Chánh niệm và Thất niệm hay Tà niệm:
- Khi đang lái xe (rửa chén, quét nhà,…) mà nghĩ tới khi tới sở phải làm gì, nghĩ chuyện ở nhà, suy nghĩ về một chủ để nào đó, hoặc suy nghĩ vẩn vơ không cụ thể, dẫn đến thiếu thận trọng trong công việc đang làm thì gọi là thất niệm.
- Khi tâm ta đang bị lôi cuốn bởi những đối tượng của sáu căn (các pháp trần): ăn chỉ biết món ăn (ngon), nghe nhạc/nghe cải lương/coi phim/lướt web-fb/tiếng chuông,… chỉ biết có nội dung của cái thấy, nghe hoặc xúc chạm đó là Tâm bị dính mắc, thay đổi hoặc phản ứng vui buồn theo đối tượng (dù là đối tượng ở hiện tại), nghĩa là tâm không còn tĩnh lặng, trong sáng, khách quan nữa, nên có thể gọi đó là tà niệm.
- Khi ta quá tập trung tâm ý vào một việc hoặc một đối tượng nào đó (trong hiện tại): đọc sách, tụng kinh niệm Phật, hơi thở, công việc đang làm, ta giới hạn cái biết của mình vào một đối tượng, hoặc có khi trở thành đồng nhất với đối tượng đó, và khi đó, ta không còn biết được các sự việc khác cũng đang đồng thời xảy ra : Có thể gọi là tà niệm hay chánh niệm một phần. Đây là chỗ tôi đã từng hiểu sai về chánh niệm và từ đó dẫn đến thực hành sai. Tại sao biết là sai? vì thực hành càng nhiều thì càng thấy mình trở nên chậm chạp, thiếu nhạy bén, hay quên !
- Khi đang ngồi thiền, tâm đang yên lặng, chợt nhớ tới câu nói mình đã lỡ lời trong lúc nóng giận với người bạn hồi sáng, suy nghĩ lại tình huống lúc đó, các nhân và duyên tạo nên và kết thúc sự kiện đó, chiêm nghiệm để nhận ra bài học cho mình --> Có thể gọi là Chánh niệm nếu đồng thời có một tâm nhận biết khách quan những suy nghĩ đang diễn ra, không phán xét đúng sai (tâm nhận biết) và
một tâm đang suy nghĩ, phân tích, suy luận (trở thành đối tượng của tâm nhận biết).
- Khi đi biết thân đang đi, đau biết thân đang đau, hết đau biết hết đau, an lạc biết tâm có an lạc,lo lắng biết tâm có lo lắng, tham biết tâm có tham, sân biết tâm có sân, quan sát như vậy một cách khách quan, không phán xét, suy luận, không dính mắc vào đối tượng hay đồng hóa mình với đối tượng, để nhận ra sự vận hành, thành trụ hoại diệt của đối tượng. Đó là Chánh niệm.
3- Các bước thực hành Chánh niệm:
Có 3 bước phát triển năng lực Chánh niệm, hay 3 cấp độ của Chánh niệm : (thực hành cá nhân):
* Bước (1): "Trở về chánh niệm" bằng cái Biết không lời = Đem tâm trở về với hiện tại qua thực hành tánh thấy, tánh nghe và tánh xúc chạm. Thường xuyên nhắc nhở tâm trở về hiện tại. Mỗi người thường chọn cho mình một kỹ thuật phù hợp nhất, một đối tượng "quen thuộc” để tâm trở về, như là niệm Phật hoặc niệm 2 từ “Không Nói”,quan sát hơi thở, hay nghe tiếng chuông, nhìn khoảng trống trước mặt, xúc chạm bàn chân... Các kỹ thuật này đều giúp chúng ta dừng ngay được tâm lăng xăng, phân tán ở các nơi, ở ba thời trở về tâm ở hiện tại ngay tức khắc "Bây giờ và Ở đây".
Ở giai đoạn đầu thực hành thiền, bước này phải được nhắc nhở và lập đi lập lại rất rất nhiều lầntrong ngày. Càng nhiều càng tốt. Để tạo thói quen cho tâm. Ngay khi nhớ ra mình đang thất niệm là đã trở về Chánh niệm
*Bước (2): Duy trì chánh niệm = Thầm nhận biết.
Buông nhẹ đối tượng chú ý ban đầu, không quá chú ý vào “một điểm” nữa, để tâm thư giãn nhẹ nhàng, tự nhiên. Điều đặc biệt ở đây là, ta không nên dùng ý thức để cố gắng tập trung chú ý nhìn rõ một đối tượng nào cụ thể, mà dùng khả năng TỰ NHẬN BIẾT của tánh giác.
Khi ta đang nhìn cảnh trước mặt, nếu có một chiếc xe chạy qua, một tiếng chim hoặc tiếng chuông ngân lên, ta có thấy, có nghe được không? Ta có phải chú ý mới biết được không? Khi chân ta bước trên đất, hơi thở ta thở ra vào, ta có thể nhận biết đồng thời không? Chỉ cần ghi nhận nó đến và đi như một tấm gương soi, một cách bình đẳng “không nắm giữ tướng chung, cũng không nắm giữ tướng riêng". Đó là dùng khả năng tự nhận biết của Tánh giác
- Khi tâm "trở về" Bây giờ và Ở đây, liền ngay đó tâm được trở về với thân “Thân đâu tâm đấy”, thì sau một ít thời gian, ta sẽ tự nhiên nhận biết lại được những gì đang diễn ra tại thân: hơi thở, tư thế, động tác, việc đang làm, xúc chạm, cảm thọ của thân…. Nếu chánh niệm đủ lâu, các đối tượng này sẽ tự thể hiện trước ta một cách rõ ràng, trọn vẹn từ đầu tới cuối, mà ta không phải tốn một sự chú ý nào vào đối tượng. Cái biết yên lặng, khách quan bao trùm đối tượng nhận biết, chứ không ở trong đối tượng, không đồng nhất với đối tượng. Duy trì chánh niệm giúp chúng ta đồng hành cùng với hiện tại, sống với cảnh vật thiên nhiên, âm thanh xung quanh, sống trọn vẹn với những người mình đang đối diện, công việc mình đang làm, tư thế mình đang ngồi (thẳng lưng), cách mình đang ăn, uống nước, quét nhà, lên/xuống bậc thang (một cách chậm rãi, thận trọng) bằng một tâm thư thái, nhẹ nhàng. Ta cảm nhận được niềm vui của sự có mặt, là lúc ta đang thật sống!
- Nếu sau khi "trở về", ta nhận ra tâm ta đang có vướng mắc, hoặc đang suy nghĩ về một chủ đề/vấn đề cụ thể nào đó. Ta cũng xem suy nghĩ như một đối tượng để quan sát, nhận biết. Ta không nên ngăn chặn suy nghĩ đang diễn ra, mà chỉ cần tiếp tục “có mặt” đồng thời cùng với tâm đó, tập nhận biết nó một cách trọn vẹn (đủ lâu) với thái độ khách quan nhất có thể. Giống như ta đang ngồi kế bên và lắng nghe bạn mình tâm sự "chỉ cần lắng nghe, chỉ cần có mặt".Ta học ra được bài học gì trong khi quan sát tâm suy nghĩ đó ? => Tâm suy nghĩ là "Như lý tư duy" của trí năng tỉnh ngộ (tâm đối tượng), và tâm quan sát khách quan là tâm chánh niệm (tâm nhận biết).
- Nếu sau khi "trở về", ta nhận ra tâm ta đang có phản ứng tham ái, sân giận, trách móc, mong cầu, hấp tấp vội vã, lo lắng sợ hãi…. Thường thì các tâm phản ứng này dễ đưa đến “kích hoạt” các ý hành, thân hành và khẩu hành (tác ý), tạo nên các nghiệp bất thiện và các quả xấu cho mình và/hoặc cho người. Chánh niệm giúp ta sớm nhận ra, để kịp thời chăm sóc và trị liệu tâm đó mộtcách có trí tuệ và từ bi, ngăn ngừa các hành động bất thiện kế tiếp, tránh hại đến mình hoặc đến người khác. Hoặc nếu cần, ta dùng "Như lý tác ý", nghĩa là sử dụng tâm từ bi, bao dung, bình đẳng,hoặc năng lực của giới, hoặc định, hoặc trí năng tỉnh ngộ để đối trị với các tâm đó, hóa giải chúng hoặc chuyển hóa chúng thành những hành động thiện lành, mang lại lợi lạc cho mình và cho người trong hiện tại và trong tương lai. Đó gọi là "ly dục, ly bất thiện pháp". Tâm thiện lành mang đến tâm bình an, an vui ngay trong đời sống hiện tại và tương lai.
"Không sợ niệm khởi, chỉ sợ giác chậm".
Tóm lại, đây là giai đoạn dùng tâm tĩnh lặng, trong sáng, khách quan để nhận biết các đối tượng của thân và tâm, hiểu rõ sự vận hành tự nhiên và bản chất chân thật của chúng. Tất cả các pháp trong tâm, tại thân và ngoài thân đều hiển bày chánh pháp. Mọi người chúng ta tiếp xúc đều là thiện tri thức. Mọi sự việc đến với ta đều có một ý nghĩa, giúp ta nhận ra bài học của cuộc sống. Nhận thức đúng (Chánh kiến) mới có thái độ và hành vi đúng (Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng).
* Bước (3): An trú trong chánh niệm = Biết Như vậy (Tự nhận biết):
Khi tâm hoàn toàn an trú, mà không có một chỗ để trụ (Vô niệm), sự vật như thế nào, tâm soi chiếu như thế đó (Chánh kiến). Khi đó, nghe chỉ là nghe, thấy chỉ là thấy, không có ta, tự ngã của ta không có người thấy và vật là đối tượng của thấy (Vô ngã). Ta hành động, nói năng, suy nghĩ bằng tâm an yên, sáng suốt, định tĩnh, trong lành, không chấp trước, không bị lôi cuốn dao động bởi đối tượng (Chánh Định). Thực hiện các việc thuận theo pháp tự nhiên và sáng suốt, quyết định nhanh nhẹn và hiệu quả (Tuệ tri). Biện tài vô ngại, trí vô sư tự khai mở, phát triển Tứ vô lượng tâm Từ Bi Hỉ Xả, vô ngã vị tha… tất cả đều là cái dụng của chân tâm, tự tánh.
4- Lợi ích của năng lực Chánh Niệm – tỉnh thức:
-Sống tỉnh thức: trọn vẹn trong hiện tại, bớt “bệnh” hay quên, không đánh mất mình.
-Hiểu ra được tâm bản ngã của chính mình, huấn luyện và làm chủ tâm, bớt tạo nghiệp ác, phát triển thiện tâm.
-Tiếp xúc trực tiếp và trọn vẹn, hạnh phúc hiện tại, nhận thức được ý nghĩa của cuộc sống.
-Soi sáng hiện tại là cách phát sanh trí tuệ: hiểu rõ những gì đang diễn ra với mình, học ra các bài học từ cuộc sống. nhận ra bài học vô thường, duyên sinh và vô ngã của các pháp.
-Định tĩnh: bình an nội tâm, không dính mắc (ở cả ba thời quá khứ, hiện tại và tương lai), tâm an nhiên, tự tại.
Xuân Hạnh
Đạo tràng Montreal-Canada
Đạo tràng Montreal-Canada
Send comment