Nhớ từ khoảng hai năm trước, trong loạt bài “Suối nguồn Hạnh phúc”, mình đã có viết về đề tài này trong một bài tựa đề “Cánh rừng Pháp”. Trong vài năm gần đây, bôn ba khắp các đạo tràng, mình đã chia sẻ về những ý nghĩa của Pháp và sự liên hệ giữa các ý nghĩa đó. Mới hôm qua đây, trong buổi sinh hoạt với đạo tràng Nam Cali tại Tổ đình, mình cũng đã trình bày lại ngắn gọn về đề tài này. Trong lời kết, mình đã nhận định đây cũng là một cánh cửa bước về nhà, cánh cửa của Trí Tuệ. Tuy nhiên, sáng sớm hôm nay, nhận thấy hôm qua nói chưa đủ, cho nên sáng nay mình quyết định dẹp qua một bên công việc thường lệ là nghe lại những audio đã giảng, mình ngồi lại viết về đề tài Pháp thêm một lần nữa.
Xin trình bày lại từ đầu cho đầy đủ hơn.
Pháp được dịch từ Dhamma (tiếng Pāli), Dharma (tiếng Sanskrit). Chữ Pháp có nhiều ý nghĩa khác nhau, tùy theo ý của câu nói, cho nên ngày nay Tây phương có khuynh hướng dùng từ gốc, tiếng Pāli hay Sanskrit, chứ không dịch âm hay dịch nghĩa nữa. Cũng tương tự vậy, Tây phươngthường dùng các từ: Samatha, Samādhi, Anupassanā, Vipassanā, Karma, Nibbāna v v…
Theo nhận địnhtương đối của mình, Pháp có thể xếp gọn lại trong 3 lãnh vực, hay 3 ý nghĩa:
1- Ý nghĩa thứ nhất: Pháp là tất cả những chân lýthường hằng trong vũ trụ; một chân lý cũng gọi là một pháp.
2- Ý nghĩa thứ hai: Pháp là tất cả những phương pháptu tập do Đức Phật dạy; một cách thức tu học do Đức Phật dạy cũng gọi là một pháp.
3- Ý nghĩa thứ ba: Pháp là tất cả những hiện tượngthế gian; một hiện tượng cũng gọi là một pháp.
Sau đây, chúng ta sẽ khảo sát chi tiết hơn.
I - Pháp là những chân lýthường hằng:
Những sự thật này có những đặc điểm sau:
- Thường hằngbất biến, không bao giờ thay đổi trong thời gian và không gian. Nghĩa là những sự thật này điều hành cả thế gian, không phân biệtquốc gia, dân tộc, hay thời xưa, thời nay hay tương lai.
- Tuyệt đối khách quan: Những sự thật này không do một người nào hay một đấng tạo hóa, hay một vị thần linh nào sáng chế ra, hay áp đặt lên con người và thế gian.
- Vô thủy vô chung: không thể biết những sự thật này có từ lúc nào và bao giờ chấm dứt.
- Tuyệt đốibình đẳng và phổ quát: Tất cả con người và thiên nhiên, loài vô tình hay hữu tình, đều xuất hiện (sinh), hiện hữu (trụ), suy yếu (hoại), chấm dứt (diệt} bình đẳng.
- Những chân lýthường hằng này do Đức Phật là người nhận ra đầu tiên đầy đủ sâu sắc, và giảng dạy lại cho con ngườichính xác nhất.
Nội dung của những chân lýthường hằng được tạm xếp gọn lại như sau:
+ Tục đếbát nhã
+ Chân đếbát nhã.
1- Tục đếbát nhã: có thể kể ra:
- Tam pháp ấn: vô thường, khổ, vô ngã.
- Duyên khởi, duyên sinh hay Y duyên tánh (Idapaccayatā)
2- Chân đếbát nhã: có thể kể ra:
- Tánh Không
- Tánh Huyễn
- Tánh Chân như
- Tánh Bình đẳng
- Niết bàn.
Bây giờ chúng ta thử khảo sát thêm về những nội dung này.
Tại sao có phân biệttục đế và tục đế bát nhã? Tục đế là gì và tục đếbát nhã là gì?
Tục đế: Đế là chân lý, là sự thật ; Tục là người đời, người thường. Tục đế là những sự thực của thế gian, của người đời, của trí thế gian, thường hay dính mắc, chủ quan, khi tiếp xúccuộc đời qua 6 căn.
Tục đế còn có tên khác là Chân lýquy ước, do con người đặt ra để sống thông cảm nhau, sống có trật tự trong tập thể. Thí dụ: luật pháp, luật lệ giao thông, nghi thứctôn giáo, cách giao tế, lễ nghi kết hôn, cách cúng tế, xã giao v.v…
Chân lýquy ước này được ghi nhận, được biểu hiện ra bằng âm thanh, bằng tên gọi, bằng lời nói, chữ viết, bằng ký hiệu, bằng màu sắc, hay cử chỉ, hành động v.v…
Vì do con ngườiquy ước đặt ra nên tất cả những biểu hiện này thay đổi theo tập thể hay theo thời gian. Ban đầuchân lýquy ước là cần thiết, tương đốithích hợp với đời sốngxã hội. Dần dầncon người dính mắc vào các danh xưng, các tên gọi, lạm dụnglời nói, chữ viết, hay các tiến bộ khoa học kỹ thuật, đưa tớitranh chấp, xung đột, chiến tranh, đau khổ.
(Có thể tham khảo chi tiết đầy đủ trong Bài đọc thêm của thầy Thiền Chủ, tựa bài:”Chân lý quy ước”).
Tục đếbát nhã: Bát nhã là dịch âm của từ Paññā (Pāli) hay Prajñā (Sanskrit), có nghĩa là trí tuệ đầy đủ, sâu sắc, chính xác, cao hơn kiến thứcthế gian.
Tục đếbát nhã là những sự thật cũng được nhận biết qua 6 giác quan và thấy rằng nó có thật qua 6 giác quan (tương tựtục đế), nhưng cũng biết rằng nó đang thay đổi từng giây phút, không bền vững chút nào (có trí tuệ).
Đây là trí tuệ của Đức Phật, giảng dạy đệ tử từ bước thấp, đơn giản, dẫn dắt đệ tử tiến lên dần dần.
Tục đếbát nhã gồm những chân lý sau đây:
- Vô thường
- Khổ
- Vô ngã
Ba chân lý này thường được xếp chung là Tam Pháp Ấn.
Tứ Pháp Ấn thì có thêm 1 sự thật:
- Vô thường
- Khổ
- Không
- Vô ngã.
Phần này chỉ xin nói khái quát về 4 sự thật đó, với mục tiêu trình bày tại sao 4 sự thật đó là tục đếbát nhã.
Vô thường: Tất cả những người, vật, cảnh…chung quanh ta đều có hiện hữu. Qua 6 giác quan: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, ngày ngày chúng ta đều tiếp xúc với hiện tượngthế gian, nhận ra chúng có thật, ảnh hưởng tới chúng ta, khiến chúng ta có vui, có buồn. Quan sát kỹ hơn một chút, chúng ta thấy tất cả đều thay đổi luôn, hình dáng, màu sắc, âm thanh v.v…không có gì là bền chắc, không có gì đứng yên. Từ vật chất, cho đếntinh thần, ý chí, tình cảm. Kết luận tất cả đều hiện hữu nhưng vô thường. Đặc tánh vô thường là một định luậthoàn toàn khách quan, phổ quát, bình đẳng, thường hằngbất biến.
Cái thấy vô thường là Trung đạo: thế gian có hiện hữu (không rơi vào chấp Không/ Non-existence) nhưng vô thường (không rơi vào chấp Có /Existence).
Thế gian có hiện hữu (cái thấy của tục đế, qua 6 căn).
Nhưng thế gianvô thường (cái thấy của trí tuệ). Cho nên Vô thường được xếp là Tục đếbát nhã.
Khổ: là sự thật đầu tiên trong 4 sự thật quan trọng, Tứ Diệu đế.
Chúng ta sống trong đời, tận mắt nhìn thấy bao nhiêu là cảnh khổ, không vừa ý, từ thân bệnh, tới tâm phiền não, ưu tư, chuyện mình, chuyện người, thiên tai, chiến tranh v.v…Tuy nhiên cũng có người được giàu sang, có địa vị, hạnh phúc, họ chưa gặp cảnh khổ, có khi họ không chấp nhận cuộc đời là biển khổ, đó là chưa có trí tuệ nhìn xa thấy rộng, chưa nhận ra sự giàu sang, địa vị, hạnh phúc mà họ đang hưởng sẽ phải thay đổi.
Cái thấy cuộc đời là có thật (tương tự cái thấy của người đời qua 6 căn) là tục đế.
Cuộc đời là biển khổ (cái thấy có trí tuệ). Nên Khổ là Tục đếbát nhã.
Không: ở đây có ý nghĩa phủ định: không ta, không cái của ta. Mình có thể hiểu đơn giản: ta vô thường và những cái của ta cũng vô thường.
Có Ta: cái thấy của tục đế qua 6 căn
Có cái của Ta: cũng là tục đế, nhận biết có, qua 6 căn.
Nhưng Ta vô thường, cái của ta cũng vô thường: có trí tuệ.
Vì thế đặc điểm Không trong Tứ Pháp Ấn, được xếp là Tục đếbát nhã.
Vô ngã: (non-self) Đức Phật phân tích con người gồm ngũ uẩn (5 aggregates/ 5 groups) là:
- sắc (form/ material)
- thọ (sensation/ feeling)
- tưởng (perception)
- hành (mental formation)
- thức (consciousness)
Năm khối kết hợp mà thành con người. Nhưng cả 5 khối đều do nhân duyên mà hiện hữu nên thay đổi tùy thuộcnhân duyên, chúng không có thực chấtbền vững cố định, chúng cũng vô thường, không có ngã cố định thường hằng, gọi là vô ngã. Con ngườivô ngã, hiện tượngthế gian cũng vô ngã, tức là nhân vô ngã, pháp vô ngã.
Con người có thật, do 5 khối kết hợp (tục đế, thấy có thật).
Nhưng 5 khối vô thường (có trí tuệ). Vì thế cái thấy Vô ngã được xếp là Tục đếbát nhã.
Duyên khởi, Duyên sinh , Y duyên tánh:
Chúng ta thường nói: Lý duyên khởi, Pháp duyên sinh.
Lý Duyên khởi: Dependent Origination.
Pháp duyên sinh: Conditioned Things.
Nguyên tắc thành lậpthế gian, vận hànhthế gian là:
“Cái này có, cái kia có,
Cái này sinh, cái kia sinh,
Cái này không, cái kia không,
Cái này diệt, cái kia diệt”.
Đây là những chân lý sâu sắc, phức tạpvô cùng. Đức Phật đã thông suốt những chân lý này, được người đời tôn xưng là Vô thượng chánh đẳng giác.
Những chân lý này giải thích sự thành lậpcon người và vũ trụ, do nhân do duyên, sự vận hành của đời sốngcon người và vũ trụ, do nhân do duyên, và sự chấm dứtđời sốngcon người và vũ trụ, cũng do nhân do duyên. Không có bàn tay can thiệp của tạo hóa, hay thần linh nào.
Trong phạm vi của bài viết này, chúng ta không khai triển chủ đề này, ở đây mình chỉ muốn nói vì sao Y duyên tánh, hay Lý Duyên khởi, Pháp duyên sinh được xếp là Tục đếbát nhã.
Khi thấy con người và thế gian có thật, có hiện hữu, nhân và duyên cũng có thật là cái thấy tương tựTục đế, qua 6 giác quan.
Cái thấy nhân và duyên là nguồn gốc thành lập cũng như điều hành và chấm dứt sự hiện hữu của con người và vũ trụ là cái thấy của trí tuệ bát nhã. Vì thế Lý Duyên khởi, Pháp Duyên sinh, hay Y duyên tánh được xếp là Tục đếbát nhã.
Tóm lại, cái thấy qua 6 căn thường là thấy bề ngoài của hiện tượngthế gian, thuật ngữ có thể nói là cái Tướng, tuy cũng phải có trí tuệ mới nhận ra được. Lãnh vực này tạm xếp là Hiện tượng học (Phenomenology).
Chân đếbát nhã: là những sự thật sâu kín, tiềm ẩn bên trong hiện tượng, xem như là bản thể của hiện tượng, tạm xếp là Bản thể học (Ontology). Thông thường có thể kể ra những chân lýcuối cùng này thuộc Bản thể của sự hiện hữu, hay của cuộc đời:
- Tánh Không / Suññatā/ Śūnyatā/ Emptiness
- Tánh Huyễn/ Māyā/ Illusion
- Tánh Chân như/ Tathatā/ Suchness
- Tánh Bình đẳng/ Samatā/ Sameness
- Niết bàn/ Nibbāna/ Nirvāna.
Những sự thật này có chung những đặc điểm sau đây:
- Phải có trí tuệ mới nhận raý nghĩa của các sự thật này. Trí tuệ cao hơn, sâu sắc hơn, khách quan hơn kiến thứcthế gian, có thể gọi là trí tuệ bát nhã.
- Những sự thật này là cao nhất, rốt ráo nhất, phổ quát, chi phối tất cả hiện tượngthế gian.
- Những sự thật này là mục tiêutu họccuối cùng của những người con Phật: hiểu biết, và áp dụngvững chắctrong đời sống của chính mình, mới có những kết quả:
. thân khỏe mạnh, hài hòa
. tâm an vui, thanh thản, phát huy từ, bi, hỷ, xả.
Trong phạm vi bài viết ngắn này, chúng ta không phân tích nhiều nữa. Chúng ta còn phải trình bày ý nghĩa thứ 2 và ý nghĩa thứ 3 của từ PHÁP. Phần sau này chỉ xin ngắn gọn thôi, vì bài sẽ quá dài.
II - Ý nghĩa thứ 2 của từ Pháp: Pháp là những phương pháptu tập do Đức Phật dạy.
Có rất nhiều, không thể kể ra hết tất cả, vì Đức Phật đã bày ra vô số cách thức tu tập , thích hợpvô sốcăn tánh khác nhau của chúng sanh. Ở đây mình chỉ xin sơ lược nhắc lại một số phương thức phổ thông:
- Chánh niệm
- Chánh niệm và tỉnh giác
- Chú tâm cảnh giác
- Không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ tướng riêng
- Không khen mình, không chê người
- Giới, Quán, Chỉ, Định, Tuệ.
- Tứ niệm xứ
- Tứ diệu đế, Bát chánh đạo
- Thất giác chi
- Tứ như ý túc
- Tứ chánh cần
- Bài Đại kinh xóm ngựa
- Bảy pháp bất thối trong kinh Đại bát niết bàn v.v…
Đặc điểm của những phương pháptu tập do đức Phật dạy có thể kể ra là:
. Do Đức Phật bày ra, nên không phải là những sự thật khách quan, thường hằng, phổ biếnnhư ý nghĩa thứ nhất của Pháp.
. Chúng ta có thể chọn một số phương thức thích hợp với mình để áp dụng.
. Những phương thức tu có thể là vô số, tùy theothời đại, tùy theocăn cơchúng sanh. Khác với những chân lýthường hằngbất biến thì chỉ có bấy nhiêu không thể thay đổi và không phải là vô số.
III - Ý nghĩa thứ 3 của PHÁP là : Những hiện tượngthế gian.
Đức Phật đã trình bày 18 giới, xem như là bao gồm tất cả hiện tượngthế gian. Đó là:
Tất cả gọi là Thập bát giới, 18 yếu tố (elements) họp thành hiện tượngthế gian, có thể tạm nói là có 2 thành phần, danh và sắc:
- Danh gồm có: ý và đối tượng của ý là pháp, tức bóng dáng của pháp trần trong tâm, và 6 thức.
- Sắc gồm có: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và 5 đối tượng là sắc, thanh, hương, vị, xúc.
Đặc điểm của 18 giới này là:
. Có thể nhận biết qua giác quancon người.
. Tất cả luôn luôn thay đổi, tức là bị chi phối bởi những qui luật: vô thường, duyên sinh, vô ngã. Đó là cái thấy trên mặt hiện tượng.
Tuy nhiên bằng trí tuệ bát nhã thì hiểu biết sâu sắc, trên mặt bản thể, tất cả đều tánh là Không, là Huyễn, bản thểcuối cùng là chân như, và bình đẳng.
KẾT LUẬN
Tại sao cả 3 ý nghĩa đều được thu gọn lại trong 1 từ là PHÁP/ DHAMMA?
Vì cả 3 ý nghĩaliên hệ nhau mật thiết. Chúng ta nhắc lại:
- Ý nghĩa thứ 1 là: Những chân lýthường hằng trong vũ trụ mà đức Phậtnhận ra và giảng dạy.
- Ý nghĩa thứ 2 là: Những phương pháptu tập do đức Phật dạy.
- Ý nghĩa thứ 3 là: Tất cả những hiện tượngthế gian.
Chúng ta sống trong đời, tiếp xúc với hiện tượngthế gian bằng 6 giác quan, phải có phương pháptu tập đúng như là phương tiện đúng, thích hợp (ý nghĩa thứ 2) mới có thể nhận biết được các sự thậtchi phốihiện tượngthế gian. Vì những chân lý không có hình sắc (ý nghĩa thứ 1), nhưng chúng hiển hiện ra hình sắc, đó là hiện tượngthế gian (ý nghĩa thứ 3). Chúng hiển hiện ra mà im lặng, không có lời nói, không có tên gọi. Chúng ta phải nhờ đức Phật bày ra những phương thức tu tập (ý nghĩa thứ 2) mới có thể thông qua giác quan và trí tuệ mà nhận rabản thể của hiện tượng.
Do đó nếu không có đức Phật chỉ dạy phương thức tu học (ý nghĩa thứ 2 của Pháp) thì mãi mãihiện tượng chỉ là hiện tượng, chúng ta không thể nhận ra những bản thể (ý nghĩa thứ 1 của Pháp) ẩn tàng bên trong hiện tượng (ý nghĩa thứ 3 của Pháp).
Hôm nay là ngày 9 tháng 12, ngày mai mình sẽ bay qua thiền việnChân Như, cuối tháng 12 sẽ là lễ Tưởng niệm Thầy.
Kính thưa Thầy,
Đầu bài, con đã đề là « Bài Trình Thầy cuối năm », dự định chỉ viết ngắn gọn trong vài trang thôi. Không ngờ lại kéo dài lê thê, mỗi chủ đề đều quan trọng, đều là một ngõ bước vào nhà, thật khó mà viết lơ mơ. Có thể con sẽ phải viết lại đầy đủ hơn mới dám trình lên Thầy. Và bài trình của con, sau 30 năm học với Thầy, chỉ có một chữ PHÁP thôi.
Tổ Đình, 9-12-2024
TN
Triệt Như - Tiếng Hát Giữa Trời - BÀI 59
BÀI TRÌNH THẦY CUỐI NĂM
Click icon tam giác để nghe - Click icon ba dấu chấm để download
Nhân dịp Xuân về / Kính chúc: Quý Tăng Ni đoàn Tánh Không, ban Điều Hành các đạo tràng, và tất cả thiền sinh Tánh Không cùng gia đình và thân hữu,/ Lời chúc: Bình an, khỏe mạnh, tính tấn, hạnh phúc
Anfang 2019 hatte ich einen Unfall. Danach hatte ich Schmerzen am Rücken und an der rechten Schulter, ich konnte meinen Arm nicht mehr heben und hatte beim Anziehen meiner Jacke starke Schmerzen im Oberarm. Die Schmerzen blieben zwei Jahre lang und wollten nicht weggehen... Ich habe dann einen Bekannten gefragt, der als Physiotherapeut arbeitet: „Wenn du einen Patienten mit Wirbelsäulenschmerzen behandelst, welchen Teil des Körpers versuchst du dabei zu beeinflussen: Knochen, Muskeln oder Gelenke? Seine Antwort war sehr kurz: „Faszien“.
So long as they could move to the stage of observing the bareness of their mind, theirs turn into empty. Nothing left to talk. In other words, “the continuous current of mind keeps running and running” via many lifespans ends without any trace.
As usual, the Americans celebrated the New Year of 2025 with the 136th Rose Parade in Pasadena, California on the first day of the year, at 8am PST, Wed, Jan 01, 2025.
No matter what ups and downs in life, that line of wisdom continues flexibly adapting itself to human life, quietly expanding and offering a source of inner peace and happiness to those who get it. Those metaphors are similar to the image of the crystal spring whose water is always cool and clear and the beginning of spiritual well-beings for humans though stones and gravels are scattering in the current. Hope the next articles in the series be the placid water that I’d warmly dedicate to the Zen practitioners who gather enough conditions.
Những dấu chân dài dài trên bờ biển Tuy Hòa hôm ấy, những dấu chân chập choạng in trên bãi cát vàng nâu, chỉ một thoáng, sóng trắng xóa tung tăng tràn vào, rồi rút lui ra biển, còn lại gì đâu, mặt cát phẳng lì, dấu chân biến mất. Nhưng kìa, ta lại bước đi, dấu chân lại in trên cát, và rồi sóng biển tràn vào, bãi cát phẳng lì, ta vẫn cứ đi, mãi mãi là người đi một mình, không để lại dấu vết.
Hôm nay ngày 29/12/2024 nhằm ngày 29/11 năm Giáp Thìn, Tưởng niệm ngày Thầy xa chúng con tròn năm năm. Chúng con đồng quy tụ về đây thành tâm đảnh lễ Phật, Tổ và Thầy một vị Ân Sư tôn kính. Lời tri ân của chúng con xin được thay thế bằng sự cố gắng tu tập theo đúng Chánh pháp. Nguyện sống sau cho xứng đáng là đệ tử của Thầy.
Do vậy, chúng ta có thể nói, tuệ trí (insight) là nền tảng của tiến trình tu tập của mình từ bước đầu, nó sẽ phát huy năng lực sâu sắc hoàn chỉnh lần tới Tuệ bát nhã (wisdom) và Tuệ bát nhã siêu vượt hơn cho tới vô biên.
Qui ouvre les portes du paradis ou de l’enfer? C'est nous, c'est notre choix. Nous sommes maîtres de notre vie. Rappelons-nous toujours cela. Le flux de la vie est toujours le même depuis la nuit des temps. Comment nous voyons la vie? Quelles expériences retenons-nous de notre vie? Ce sont celles que nous voyons, celles que nous aimons, celles que nous voulons, celles que nous choisissons.
Pháp tu “Tứ Chánh Cần” gồm bốn điều cần tu tập. Hai điều nhằm đoạn trừ pháp Ác và hai điều xiển dương pháp Thiện, nên hành giả cần có tuệ trí phân biệt thế nào là Thiện pháp, thế nào là Ác pháp.
Juste une observation pure, ouvrir les yeux et percevoir l'objet tel qu'il est. Que ce soit, en conscience verbale ou non verbale, l’esprit reste pur, calme et objectif. Il s’agit du mental vrai, dans lequel les préceptes, la contemplation, le samatha, le samadhi et la sagesse sont pleinement présents.
Erhabener, ich gebe meinen Geist auf und lebe nach dem Geist dieser Ehrwürdigen. Erhabener, obwohl wir verschiedene Körper haben, haben wir den denselben Geist.
Q.H, Đạo tràng Paris rút tỉa, sắp xếp, cắt dán lại những thuật ngữ Thiền từ các sách mà Thầy đã xuất bản -
Trương Đăng Hiếu, Đạo tràng Nam Cali đánh máy, trình bày lại để làm tư liệu Anh chị thiền sinh cùng nhau tu học.
Il est normal, naturel et raisonnable que des phénomènes apparaissent, changent et se terminent. Si nous pouvions comprendre cela, lorsque quelque chose apparaît ou disparaît, nous ne serions ni heureux ni tristes. Notre esprit est alors serein et paisible.
Đức Phật dạy khi một trong các loại tâm xuất hiện, chúng ta không làm gì khác, ngoài việc ghi nhận, quan sát, biết rõ sự hiện diện của nó mà thôi! Khi quan sát mà trong tâm không khởi lên bất cứ một ý nghĩ nào khác thì lúc đó hành giả đang trú trong tự tánh, tức tướng thật của tâm.
Wenn man den Titel dieses Artikels liest, denkt man vielleicht, dass er zu hochtrabend, umfassend und unrealistisch ist. Es stimmt, man kann dieses Thema nicht auf wenigen Seiten darstellen. Deshalb möchte ich mich heute nur auf „Die vier Grundlagen der Sympathie“ (catursaṃgrahavastu) aus buddhistischer Sichtweise beschränken und wie wir sie in unserem alltäglichen Leben umsetzen können.
Học Phật, chúng ta thấy Ngũ căn-ngũ lực là năm yếu tố căn bản, năm yếu tố cốt lõi trên con đường tu học, mà đức Phật đã dạy cho một kẻ phàm phu mới bắt đầu, cho đến khi kết thúc trở thành bậc Vô học (A-la-hán).
Le contenu de la retraite de cette année est principalement un résumé des thèmes centraux du zen bouddhiste, de la première à la dernière étape. Chaque année, la retraite accueille de nouveaux participants, mais la plupart d'entre eux sont des méditants chevronnés, qui ont parfois 10 ou 15 ans de pratique ou plus. L'enseignement devait donc répondre aux exigences de chaque niveau d'apprentissage.
Das Dharmator ist das Tor zum Eintreten, um zu lernen, zu verstehen und zu praktizieren vom Dharma. Der Dharma ist die Wahrheit, wie auch alle Phänomene der Welt. Demnach können wir uns zwei verschiedene Dinge vorstellen. Nein, sie sind nicht verschieden. Die Wahrheit wird durch jedes weltliche Phänomen offenbart, und jedes weltliche Phänomen ist die Wahrheit. Das Selbst ist auch die Wahrheit, und die Wahrheit offenbart sich auch durch das Selbst. Das Selbst ist auch die volle Wahrheit. Alle sind gleich: sie sind alle vergänglich, sie sind alle selbstlos, sie sind alle bedingt, sie sind alle leer, sie sind alle wie Illusionen, sie sind alle wie Unbeweglichkeit. Sie sind alle ungeboren, also unsterblich.
La sangha de Paris a été créée très tôt, il y a environ 21 ans, la plupart des membres étaient des méditants chevronnés qui avaient étudié directement avec le Maître Fondateur. Sachant cela, chaque année, comme d'habitude, je m'y rendais avec la simple intention de leur rendre visite.
Quán các cảm thọ, là quan sát, ghi nhận sự sanh khởi của Thọ uẩn: Đây là Thọ khổ, đây là Thọ lạc, đây là Thọ xả, đây là Thọ liên hệ vật chất, đây là Thọ không liên hệ vật chất. Niệm Thọ để thấy tính sanh diệt, vô thường, khổ, vô ngã của Thọ uẩn...
Những đo đạt sau cùng của Thiền sư Thích Thông Triệt đã được thực hiện vào ngày 8 và 9 tháng 6 năm 2013. Tôi tường trình ở đây một số kết quả từ những thực nghiệm này kết hợp với kỹ thuật chụp ảnh chức năng cộng hưởng từ (f-MRI) và điện não đồ (EEG, 256 channels).
La retraite de cette année à Toronto a réuni de nombreux méditants chevronnés y participent. Je sais qu'ils veulent simplement venir me rendre visite. Ils ont déjà maîtrisé le chemin de pratique, ayant étudié directement avec le Maître il y a de nombreuses années. C'est pourquoi, cette année, simplement un résumé de la théorie et de la pratique est présenté, afin d'aider chacun à maîtriser les étapes sans craindre de se tromper.
1- Hầu hạ cha mẹ là pháp được người hiền trí tuyên bố - Kinh BỔN PHẬN – Tăng Chi Bộ I, tr270
2.- Được chấp nhận ngang bằng với Phạm Thiên. Kinh BẰNG VỚI PHẠM THIÊN – Tăng Chi Bộ I, tr 684
3.- Làm sao trả ơn đủ cho cha mẹ - Kinh ĐẤT – Tăng Chi Bộ I, tr 118
Le perfectionnement spirituel est un processus qui va du simple au plus difficile; la connaissance associée est peu solide au début, mais elle est progressivement transformée par l'apprentissage pour devenir de plus en plus explicite et solide.
Bằng những kỹ thuật của Thiền, ta có khả năng điều chỉnh được bệnh tâm thể. Chỉ vì bệnh tâm thể do những trạng thái tâm rối loạn như lo âu, sợ hãi, uất cảm, giận tức, sầu khổ, trầm cảm dây dưa gây ra. Trong lúc đó mục tiêu nhắm đến của Thiền, trước tiên là điều chỉnh những rối loạn của tâm. Thiền làm cho tâm được thư giãn, thanh thản, phấn chấn, và an tịnh.
Uất cảm được định nghĩa là sự biểu lộ trạng thái tâm lý biến động, căng thẳng, không quân bình hay không xứng hợp giữa tri giác và nhận thức về những yêu cầu (demands), nhu cầu (needs), hay khả năng đối phó trước những tình hình khẩn trương đang xảy ra.
We use cookies to help us understand ease of use and relevance of content. This ensures that we can give you the best experience on our website. If you continue, we'll assume that you are happy to receive cookies for this purpose.