HỘI THIỀN TÁNH KHÔNG TRUNG ƯƠNG

Thích Nữ Hằng Như: Thiền Tuệ: “QUÁN TÂM TRÊN TÂM”

Sunday, November 10, 20244:35 PM(View: 397)

  Thiền Tuệ: “QUÁN TÂM TRÊN TÂM”

 blank

I. DẪN NHẬP

Khi nói đến thiền Quán là nói đến Tứ Niệm Xứ. Quán Tứ Niệm Xứthiết lập Chánh niệm trên bốn lãnh vực Thân, Thọ, Tâm, Pháp.  Những lần sinh hoạt trước, chúng ta đã học qua phần quán Thân và quán Thọ. Quán Thân có sáu đề mục để thực tập, đó là quán hơi thở; quán bốn oai nghi: đi, đứng, nằm, ngồi;  quán các hành hoạt của thân; quán tứ đại: địa đại, thủy đại, phong đại, hỏa đại; quán 32 thể trược; và quán tử thi. Quán Thọ là quán các cảm thọ nơi thân tâm gồm Khổ thọ là những cảm thọ  buồn phiền, không dễ chịu. Lạc thọ là những cảm thọ dễ chịu, thích thú, hài lòng. Xả thọ là những cảm thọ bình thường không khổ cũng không lạc.

Hôm nay chúng ta bước qua phần thứ ba, đó là “Quán Tâm trên Tâm”.   Muốn quán Tâm, chúng ta cần tìm hiểu xem Tâm là cái gì?

 

II. KHÁI NIỆM VỀ TÂM

Tâm tiếng Pali là Citta. Theo định nghĩa của A-tỳ-đàm (Abhidhamma), Tâm được dịch là  “cái biết cảnh”  hay “cái bắt cảnh”.  Có cảnh mới có tâm, không có cảnh không có tâm. Con người có sáu cảnh, đó là  Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp. Tâm nhận biết cảnh qua sáu căn: Mắt, Tai, Mũi, Lưỡi, Thân và Ý gọi là Nhãn thức, Nhỉ thức, Tỷ thức, Thiệt thức, Thân thứcÝ thức. Như vậy tâm duyên cảnh mà sinh khởi. Từ một trong sáu Thức, phát sinh nhiều tâm khác như: Tâm thương, tâm ghét, tâm vui, tâm buồn, tâm hận, tâm oán, tâm tham, tâm sân, tâm si, tâm pháp, tâm ấn, tâm bình đẳng, chân tâm, vọng tâm v.v... gọi chung là tâm sở.

Tâm gồm có ba phần: Ý (Mano), Thức (Vinnana), Tâm (Citta). Tên gọi khác là Ý Căn, Ý thứcTrí năng.  Ý hay Ý căn có khả năng tư duy, suy nghĩ về những chuyện đã xảy ra, thường hướng về quá khứ nên trong kinh gọi là Tâm quá khứ. Ý thức thì có khả năng tổng hợp, phân biệt, nhận định... đưa đến quyết định qua lời nói, hành động ngay trong hiện tại nên gọi là Tâm hiện tại. Vai trò của Tâm (hay Trí năng) là huân tập, dung chứa những thông tin từ Ý Căn và Trí năng rồi phát họa ra ý tưởng hành động trong tương lai, nên được xếp là Tâm tương lai. Cả ba gọi chung là Tâm Ba thời.

Về tướng trạng, tâm có hai mặt: Động và Tịnh. Động là mặt nổi. Tịnh là mặt sâu lắng yên lặng.

1) Động hay tướng ảo: Là mặt nổi của tâm, do cảnh vật bên ngoài tác động thông qua sáu căn, nên cảnh hiện khởi trong tâm để cho thức thấy biết. Gọi là động vì lúc nào tâm cũng dao động, bất an, do suy nghĩ; phân biệt phán đoán, vẻ vời của ý căn, ý thứctrí năng. Gọi là ảo, vì tâm thay đổi từng sát-na, lúc vui, lúc buồn, lúc thương, lúc ghét, lúc vầy lúc khác... nên cái biết của nó không thường hằng. Tâm này còn có tên gọi khác là Vọng tâm, Tâm thế gian hay Tâm ba thời.

1) Tịnh hay tướng thật: Chiều sâu bên trong của tâm, tức bản thể của tâm là sự yên lặng, sâu lắng, bất sanh bất diệt. Ở nó, có cái “tự biếtthường hằng bẩm sinh không cần học hỏi. Đối tượng như thế nào nó biết như thế đó, không khen, không chê...  tức không chế định bất cứ điều gì lên đối tượng nên nó được xem là thật tướng. Tên gọi khác của tâm này là Tánh giác, là Chân tâm hay Tự tánh v.v...

Khi tu tập bất cứ pháp môn nào, đức Phật cũng dạy hành giả nên quay về chỗ Thật tướng của tâm, tức quay về Chân tâm, nghĩa là hành giả trở lại sống  với cái Tự tánh chân thật của mình. Thật tướng chỉ thuần là cái “Tự Biết” là cái “Tuệ tri”. Đối tượng hiện hữu nó biết, không có đối tượng, nó cũng biết. Cho nên đặc tính của Thật tướng tâm là thường biết, thường tri.  

 

III. KINH VĂN “QUÁN TÂM”

Bây giờ chúng ta vào đề mục chính là học phần “Quán Tâm” trong bài Kinh Tứ Niệm Xứ. Kinh ghi như sau:

“Này các Tỷ-kheo, như thế nào là Tỷ-kheo sống quán tâm trên tâm? Này các Tỷ-kheo, ở đây, Tỷ-kheo, với tâm có tham, tuệ tri: “Tâm có tham”; hay với tâm không tham, tuệ tri: “Tâm không tham”. Hay với tâm có sân, tuệ tri: “Tâm có sân”; hay với tâm không sân, tuệ tri: “Tâm không sân”. Hay với tâm có si, tuệ tri: “Tâm có si”; hay với tâm không si, tuệ tri: “Tâm không si”.

 Hay với tâm thâu nhiếp, tuệ tri: “Tâm được thâu nhiếp”. Hay với tâm tán loạn, tuệ tri: “Tâm bị tán loạn”. Hay với tâm quảng đại, tuệ tri: “Tâm được quảng đại”; hay với tâm không quảng đại, tuệ tri: “Tâm không được quảng đại”. Hay với tâm hữu hạn, tuệ tri: “Tâm hữu hạn”. Hay với tâm vô thượng, tuệ tri: “Tâm vô thượng”. Hay với tâm có định, tuệ tri: “Tâm có định”; hay với tâm không định, tuệ tri: “Tâm không định”.

Hay với tâm giải thoát, tuệ tri: “Tâm có giải thoát”, hay với tâm không giải thoát, tuệ tri: “Tâm không giải thoát”.

Như vậy vị ấy sống quán tâm trên nội tâm; hay sống quán tâm trên ngoại tâm; hay sống quán tâm trên nội tâm, ngoại tâm. Hay sống quán tánh sanh khởi trên tâm; hay sống quán tánh diệt tận trên tâm; hay sống quán tánh sanh diệt trên tâm. “Có tâm đây”, vị ấy sống an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật gì trên đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo sống quán tâm trên tâm” (hết trích)

 

       IV. TÌM HIỂU Ý NGHĨA - KINH VĂN 

- Thế nào là “Quán Tâm trên Tâm”: Quán là quan sát, là tuệ tri, là ghi nhận, là hay biết... Chữ Tâm đầu tiên được hiểu là Thức.  Chữ Tâm thứ hai trong “Quán Tâm trên các Tâm” chỉ toàn bộ hệ thống 6 thức của chúng ta. Thức nào trổi lên mạnh nhất thì lấy cái đó làm đối tượng để quán. Quán một thức trong 6 thức đang vận hành gọi là “Quán Tâm trên các Tâm”.

Quán hay Niệm ở đây bao gồm ý nghĩaquán sát, tuệ tri. Tuệ tri là cái biết trong sáng khách quan. Còn tâm bị quan sáttrạng thái hiện hữu của tâm thức, là những phản ứng của tâm thí dụ như tâm thiện, tâm ác, tâm tham hay tâm sân...  gọi chung là tâm sở.

Quán tâmghi nhận, hay biết rõ những gì đang xảy ra nơi tâm, tức những hoạt động ở nơi tâm. Như vậy thiền Quán là nhìn sâu vào sự vật hiện tượng để thấy được hoạt động của nó, từ đâu có nó và bản chất của nó như thế nào.

Trong kinh Tứ Niệm Xứ hay Đại Niệm Xứ, đức Phật đưa ra 16 tâm để hành giả thực tập

1) Khi tâm có tham, hành giả tuệ tri tâm có tham. Tâm tham là khi tâm bị dính mắc hay ràng buộc với một ái dục nào đó, chẳng hạn như tài, sắc, danh, thực, thùy... Đây là tâm tham của người thế gian nhằm phục vụ riêng cho cá nhân cho bản ngã của mình. Cũng có loại tham của những vị đã bước vào dòng Thánh, đạt các quả vị: Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm. Cái tham của những vị này là lòng mong muốn giúp mọi người tu tập đạt được quả vị thoát khổ giống như mình.  Về tâm tham, đức Phật dạy, khi tâm có tham thì tuệ tri tâm có tham.   

2) Tâm vô tham, tuệ tri tâm vô tham: Quán tâm vô tham nghĩa là khi tâm không tham, hành giả tuệ tri tâm không tham.

3) Tâm có sân, tuệ tri tâm có sân. Tâm sân là tâm buồn bực, bất như  ý, hờn giận thù ghét...  Quán tâm sân, là khi tâm có sân, tuệ tri tâm đang có sân.

4) Tâm không sân, tuệ tri tâm không sân. Quán tâm không sân là khi  tâm không sân, tuệ tri tâm không sân.

5) Tâm có si, tuệ tri tâm có si. Tâm si là tâm nghi ngờ giằng co, lưỡng lự, không dứt khoát giữa hai vấn đề. Nói cách khác si giống như một màn che chắn khiến hành giả mê man không thấy biết một cách đúng đắn những gì đang hiện hữu trước mặt.

6) Tâm không si, tuệ tri tâm không si. Tâm không si, tuệ tri tâm không si.

7) Tâm thâu nhiếp, tuệ tri tâm thâu nhiếp. Tâm thâu nhiếp có hai ý. Ý thứ nhất là tập trung. Thí dụ như thâu nhiếp 6 căn không cho chạy theo 6 trần, hay tập trung tâm vào một đối tượng giúp tâm yên lặng, khi thực hành thiền định. Đây là thiện pháp. Còn ý thứ hai là tâm trạng dả dượi, mệt mỏi, chán chường ... là một hình thức của hôn trầm thụy miên, gọi là “tâm co rút”. Trong bối cảnh “quán tâm trên các tâm”, thì tâm co rút được hiểu là tâm mỏi mệt, lười biếng. Khi tâm mỏi mệt, buồn ngủ, lười biếng, thì tâm trí không còn tỉnh táo, không còn sáng suốt, mất chánh niệm không muốn tu tập quán chiếu gì cả, nên nó thuộc về ác pháp.

Khi “tâm co rút” đưa đến sự mất tỉnh giác, đồng nghĩa với sự hay biết của tâm đang co rút giảm thiểu sự sáng suốt.

8) Tâm tán loạn, tuệ tri tâm tán loạn. Tâm tán loạnphóng dật, thiếu sự tập trung, do suy nghĩ liên tục hết chuyện này sang chuyện khác, tức thân ở chỗ này mà tâm ở chỗ khác. Nó còn có nghĩa là tâm bất an. Quán tâm tán loạn là khi tâm tán loạn, biết rằng tâm đang tán loạn.

9) Tâm quảng đại, tuệ tri tâm quảng đại. Tâm quảng đại là tâm rộng lớn, thông khoáng của các vị  tu thiền đạt được các tầng định như Sơ định, Nhị định, Tam định, Tứ định thì tâm mới đi đến chỗ quảng đại. Tâm quảng đại còn được hiểu là tâm từ, bi, hỷ, xả. Đức Phật dạy khi hành giả đạt được tâm quảng đại thì tuệ tri tâm quảng đại.

10) Tâm không quảng đại, tuệ tri tâm không quảng đại. Tâm không quảng đại là những tâm liên quan đến dục giới. Phật dạy tâm không quảng đại biết rằng tâm không quảng đại.  

11) Tâm hữu hạn, tuệ tri tâm hữu hạn. Tâm hữu hạn là tâm ở trong phạm vi cuộc sống của người thế gian. Khi tâm hữu hạn thì tuệ tri tâm hữu hạn.

12) Tâm vô thượng tuệ tri tâm vô thượng. Tâm vô thượng là tâm thoát ra khỏi tam giới: dục giới, sắc giới, vô sắc giới, là tâm ở trạng thái cao nhất, như tâm của đức Phật khi chứng quả Vô Thượng Chánh Đẳng Giác. Người bình thường không có tâm này. Đức Phật dạy vị nào tu tập chứng được tâm vô thượng thì tuệ tri tâm vô thượng.

13) Tâm có định, tuệ tri tâm có định. Tâm định là tâm yên lặng ở trạng thái cận định hay nhập định. Tâm có định thì tuệ tri tâm có định.

14) Tâm không định, tuệ tri tâm không định. Tâm không định thì tuệ tri tâm không định.

15) Tâm giải thoát, tuệ tri tâm giải thoát. Tâm giải thoát là tâm thoát khỏi phiền não trong từng sát-na, hay trong thời gian ngắn, đó là tâm minh sát. Hoặc là tâm giải thoát từng phần của các bậc thánh tăng hay toàn phần của các vị A-la-hán. Phật dạy tâm giải thoát, tuệ tri tâm giải thoát.

16)  Tâm không giải thoát, tuệ tri tâm không giải thoát. Tâm không giải thoát, tuệ tri tâm không giải thoát.

 

 V. THỰC HÀNH “QUÁN TÂM TRÊN CÁC TÂM” NHƯ THẾ NÀO?

Thiền Tuệ hay thiền Quán là thiền để thấy cho được bản chất của sự vật hiện tượng. Sự vật hiện tượng được hiểu là con người (thân-tâm) và cảnh vật bên ngoài. Tất cả sự vật hiện tượng  đều do duyên sinh. Vì duyên sinh nên vô thường, vô ngã. Do duyên sinh nên các sự vật hiện tượng thay đổi theo thời gian một cách khách quan không theo ý muốn của một ai. Vì không thuận theo ý muốn của mình nên mình khổ (dukkha).

Về vấn đề tu tập, thiền Tuệ không bắt buộc hành giả phải tọa thiền với tư thế bán già hay kiết già liên tục như thực hành thiền Định. Thực hành thiền Tuệ, hành giả có thể ngồi yên quán chiếu những gì xảy ra trên thân trên tâm, hay lúc đi, đứng, nằm, ngồi cũng có thể thực hành thiền Tuệ, nếu hành giả giữ chánh niệm, tức ghi nhận những diễn biến nơi thân, nơi tâm bất cứ lúc nào, bất cứ nơi đâu.

Điều cần nhớ là hoạt động của tâm như thế nào, rõ biết tâm như thế đó chứ không phải cố làm điều thiện, cố làm những gì tốt hơn tâm hiện tại. Vì khi có “thay đổi đối tượng” thì lúc ấy bản ngã đã xuất hiện. Khi bản ngã xuất hiện thì sự quán sát của hành giả không còn trong sáng khách quan nữa.

Trong Kinh Tứ Niệm Xứ, đức Phật giới thiệu 16 loại tâm thức, để hành giả thực hành bài “Quán tâm”.  Bất cứ tư tưởng, hình ảnh nào hiện hữu trong tâm, thì đó là đối tượng để tâm quán sát. Khi quán sát, hành giả không đưa thêm tư kiến đúng sai, thiện ác, không bóp méo, bẻ cong uốn nắn, tư duy theo ý của mình, cũng không cố gắng giữ đối tượng thiện, xua đuỗi đối tượng ác... nghĩa là không có bản ngã xen vào trong lúc thực hànhQuán Tâm trên Tâm”. Tâm tham biết đó là tâm tham. Tâm sân biết đó là tâm sân. Tâm si biết đó là tâm si... Tâm như thế nào biết rõ, và khi nó chấm dứt lúc nào cũng biết rõ. Quán như thế để nhận ra tánh sanh-diệt, vô-thường - khổ - vô ngã của Danh-Sắc.

Khi trí tuệ nhận ra tất cả mọi thứ hiện hữu trong tâm có sanh có diệt, thì cũng nhận ra tất cả hiện tượng trên thế gian cũng tùy theo điều kiện mà có sanh có diệt, cho thấy tính vô thường-vô ngã của vạn vật. Người có tuệ giác sẽ không dại gì sống nương tựa chấp trước với những thứ không bền vững ở trên đời, mà chỉ an trú trong chánh niệm phát huy chánh trí hướng tới quả vị giải thoát Niết-bàn.

 

VI. RÚT RA BÀI HỌC

Tu thiềntu tâm. Tu tâmhai mặt. Một mặt là tập trung tâm vào một đối tượng nào đó để giúp tâm yên lặng, thoát khỏi tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến... Đó là tu thiền Định. Còn một mặt khác là phát huy trí tuệ bằng cách quán sát mọi hành hoạt trên thân và tâm của chính mình để nhận ra tánh sanh-diệt, tánh vô thường-khổ-vô ngã của thân tâm, thì đó là tu thiền Tuệ, còn gọi là thiền Quán. Từ đó, hành giả không còn nương tựa hay chấp trước một thứ gì ở trên đời.

Ở phần đầu bài, chúng ta có đề cập đến tướng trạng của tâm con người. Rằng tâm con người có 2 tướng trạng, đó là Tướng thật chỉ cho Chân tâm và Tướng ảo chỉ cho Vọng tâm.

- Nếu chúng ta ở chỗ thật tướng của tâm, thì tâm đó có sự “tự biết” , “hay biết” bẩm sinh, mà không phải huân tập, suy nghĩ, hay phân biệt. Cái tâm này, nó sâu lắng yên tịnh, bất động, bất sanh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm, tức không có sự hiện diện của Tâm ba thời: Quá khứ (Ý căn), Hiện tại (Ý thức), Vị lai (Trí năng).

- Còn Ý căn, Ý thức, Trí năng do cảnh trần mà hiện khởi, nên nó là tướng ngoài của tâm. Vì dính mắc với cảnh, nên nó luôn bị dao động. Nó thay đổi liên tục hết cảnh này sang cảnh khác, hết tư duy này đến tư duy khác, không đứng yên một chỗ nên trong giáo lý nhà Phật gọi nó là Vọng tâm. Vọng là không thật.

Như vậy khi tu tập, chúng ta trở về với cái tướng thật của tâm. Tướng thật của tâm chỉ thuần “là cái biết khách quan, trong sáng” nó không tác động thêm bớt vào sự hiện hữu, ngược lại cũng không ai làm chủ được nó. Vì thế người sống với tâm này sẽ không bị ràng buộc bởi những dục vọng phiền não của thế gian.

Trở lại 16 loại tâm, đức Phật dạy chúng ta thực hành quán chiếu trong bài kinh Tứ Niệm Xứ. Có ít nhất là 9 loại tâm rất phổ biến trong đời sống của chúng ta, đó là các tâm: Tham, Sân, Si, Vô tham, Vô sân, Vô si, Thâu nhiếp, Tán loạn, Hữu hạn. Đức Phật dạy khi một trong các loại tâm này xuất hiện, chúng ta không làm gì khác, ngoài việc ghi nhận, quan sát, biết rõ sự hiện diện của nó mà thôi!

Khi quan sát mà trong tâm không khởi lên bất cứ một ý nghĩ nào khác thì lúc đó hành giả đang trú trong tự tánh, tức tướng thật của tâm.

Tóm lại, Quán Tâm có nghĩa là chúng ta sống được với Cái Thật Tướng của mình. Chỗ đó trong kinh gọi là Chân tâm, Chân như, Bình đẳng tánh, Tự tánh hay Pháp giới tánh v.v... Một lần nữa, chúng ta cần ghi nhớ, mục đích tu tập pháp môn nào, đức Phật cũng đều dạy chúng ta hòa nhập với cái thực tướng của tâm.

Đến đây, chúng tôi tạm ngưng bài “Quán Tâm Trên Tâm”. Chúc quý vị hữu duyên, thực hành bài tập “Quán Tâm” tới đâu thành tựu tới đó. Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

 

THÍCH NỮ HẰNG NHƯ

(Sinh hoạt trên zoom ngày 03/11/2024

với thiền sinh Thiền Tánh Không, Houston, Texas)

 

 

 

 

 

 

 

           

 

 

 

 

 

 

 

 

 

                                  

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Send comment
Off
Telex
VNI
Your Name
Your email address
Tuesday, December 10, 20247:02 PM(View: 99)
Do đó nếu không có đức Phật chỉ dạy phương thức tu học (ý nghĩa thứ 2 của Pháp) thì mãi mãi hiện tượng chỉ là hiện tượng, chúng ta không thể nhận ra những bản thể (ý nghĩa thứ 1 của Pháp) ẩn tàng bên trong hiện tượng (ý nghĩa thứ 3 của Pháp).
Wednesday, December 11, 20241:10 PM(View: 93)
Qui ouvre les portes du paradis ou de l’enfer? C'est nous, c'est notre choix. Nous sommes maîtres de notre vie. Rappelons-nous toujours cela. Le flux de la vie est toujours le même depuis la nuit des temps. Comment nous voyons la vie? Quelles expériences retenons-nous de notre vie? Ce sont celles que nous voyons, celles que nous aimons, celles que nous voulons, celles que nous choisissons.
Monday, December 9, 20249:11 PM(View: 80)
Pháp tu “Tứ Chánh Cần” gồm bốn điều cần tu tập. Hai điều nhằm đoạn trừ pháp Ác và hai điều xiển dương pháp Thiện, nên hành giả cần có tuệ trí phân biệt thế nào là Thiện pháp, thế nào là Ác pháp.
Wednesday, December 4, 20248:41 AM(View: 203)
Juste une observation pure, ouvrir les yeux et percevoir l'objet tel qu'il est. Que ce soit, en conscience verbale ou non verbale, l’esprit reste pur, calme et objectif. Il s’agit du mental vrai, dans lequel les préceptes, la contemplation, le samatha, le samadhi et la sagesse sont pleinement présents.
Sunday, December 1, 202412:43 PM(View: 136)
Erhabener, ich gebe meinen Geist auf und lebe nach dem Geist dieser Ehrwürdigen. Erhabener, obwohl wir verschiedene Körper haben, haben wir den denselben Geist.
Thursday, November 14, 20247:03 AM(View: 440)
Q.H, Đạo tràng Paris rút tỉa, sắp xếp, cắt dán lại những thuật ngữ Thiền từ các sách mà Thầy đã xuất bản - Trương Đăng Hiếu, Đạo tràng Nam Cali đánh máy, trình bày lại để làm tư liệu Anh chị thiền sinh cùng nhau tu học.
Tuesday, November 12, 20246:43 AM(View: 481)
Il est normal, naturel et raisonnable que des phénomènes apparaissent, changent et se terminent. Si nous pouvions comprendre cela, lorsque quelque chose apparaît ou disparaît, nous ne serions ni heureux ni tristes. Notre esprit est alors serein et paisible.
Sunday, November 3, 20249:06 AM(View: 370)
Wenn man den Titel dieses Artikels liest, denkt man vielleicht, dass er zu hochtrabend, umfassend und unrealistisch ist. Es stimmt, man kann dieses Thema nicht auf wenigen Seiten darstellen. Deshalb möchte ich mich heute nur auf „Die vier Grundlagen der Sympathie“ (catursaṃgrahavastu) aus buddhistischer Sichtweise beschränken und wie wir sie in unserem alltäglichen Leben umsetzen können.
Wednesday, October 23, 202411:29 AM(View: 628)
VIDEO TƯỞNG NIỆM & HÌNH ẢNH Lễ CUNG RƯỚC TRÀ TỲ Thầy THÍCH KHÔNG NHƯ về Tổ Đình Thiền Viện Tánh Không tại Tổ Đình ngày 20 THÁNG 10, 2024
Tuesday, October 15, 20245:01 PM(View: 707)
Học Phật, chúng ta thấy Ngũ căn-ngũ lực là năm yếu tố căn bản, năm yếu tố cốt lõi trên con đường tu học, mà đức Phật đã dạy cho một kẻ phàm phu mới bắt đầu, cho đến khi kết thúc trở thành bậc Vô học (A-la-hán).
Wednesday, October 9, 202411:55 AM(View: 748)
Trích từ sách Luận Giảng Vấn Đáp về THIỀN và KIẾN THỨC THỜI ĐẠI của HT Thích Thông Triệt (2014) Luận giảng số 9
Monday, October 7, 20248:46 AM(View: 785)
Le contenu de la retraite de cette année est principalement un résumé des thèmes centraux du zen bouddhiste, de la première à la dernière étape. Chaque année, la retraite accueille de nouveaux participants, mais la plupart d'entre eux sont des méditants chevronnés, qui ont parfois 10 ou 15 ans de pratique ou plus. L'enseignement devait donc répondre aux exigences de chaque niveau d'apprentissage.
Friday, September 27, 20243:30 PM(View: 796)
Das Dharmator ist das Tor zum Eintreten, um zu lernen, zu verstehen und zu praktizieren vom Dharma. Der Dharma ist die Wahrheit, wie auch alle Phänomene der Welt. Demnach können wir uns zwei verschiedene Dinge vorstellen. Nein, sie sind nicht verschieden. Die Wahrheit wird durch jedes weltliche Phänomen offenbart, und jedes weltliche Phänomen ist die Wahrheit. Das Selbst ist auch die Wahrheit, und die Wahrheit offenbart sich auch durch das Selbst. Das Selbst ist auch die volle Wahrheit. Alle sind gleich: sie sind alle vergänglich, sie sind alle selbstlos, sie sind alle bedingt, sie sind alle leer, sie sind alle wie Illusionen, sie sind alle wie Unbeweglichkeit. Sie sind alle ungeboren, also unsterblich.
Friday, September 27, 202410:34 AM(View: 710)
Ni Sư Thích Nữ Triệt Như KHÓA TU 3 NGÀY CỦA ĐẠO TRÀNG MONTREAL tại Chùa Địa Tạng ngày 16 tháng 6, 2024 (phần 2/2)
Tuesday, September 24, 202410:34 AM(View: 991)
Ni Sư Thích Nữ Triệt Như KHÓA TU 3 NGÀY CỦA ĐẠO TRÀNG MONTREAL tại Chùa Địa Tạng ngày 15 tháng 6, 2024 (phần 1/2)
Wednesday, September 18, 20246:59 PM(View: 1033)
VIDEO: Khóa nhập thất song ngữ Việt- Pháp tại trung tâm Vaumarcus THỤY SỸ từ 18 đến 24 /8/ 2024 / Thực hiện Kim Thoa - Giọng ca Kim Mai
Friday, September 13, 20248:36 AM(View: 1023)
La sangha de Paris a été créée très tôt, il y a environ 21 ans, la plupart des membres étaient des méditants chevronnés qui avaient étudié directement avec le Maître Fondateur. Sachant cela, chaque année, comme d'habitude, je m'y rendais avec la simple intention de leur rendre visite.
Monday, September 9, 20241:38 PM(View: 1016)
Dans l'immensité de la mer, Il existe une petite île. Au lieu de s'y réfugier, Nous nous accrochons aux écumes...
Thursday, September 5, 20247:55 PM(View: 907)
Quán các cảm thọ, là quan sát, ghi nhận sự sanh khởi của Thọ uẩn: Đây là Thọ khổ, đây là Thọ lạc, đây là Thọ xả, đây là Thọ liên hệ vật chất, đây là Thọ không liên hệ vật chất. Niệm Thọ để thấy tính sanh diệt, vô thường, khổ, vô ngã của Thọ uẩn...
Wednesday, August 28, 202410:43 AM(View: 975)
Những đo đạt sau cùng của Thiền sư Thích Thông Triệt đã được thực hiện vào ngày 8 và 9 tháng 6 năm 2013. Tôi tường trình ở đây một số kết quả từ những thực nghiệm này kết hợp với kỹ thuật chụp ảnh chức năng cộng hưởng từ (f-MRI) và điện não đồ (EEG, 256 channels).
Wednesday, August 21, 20248:40 AM(View: 994)
La retraite de cette année à Toronto a réuni de nombreux méditants chevronnés y participent. Je sais qu'ils veulent simplement venir me rendre visite. Ils ont déjà maîtrisé le chemin de pratique, ayant étudié directement avec le Maître il y a de nombreuses années. C'est pourquoi, cette année, simplement un résumé de la théorie et de la pratique est présenté, afin d'aider chacun à maîtriser les étapes sans craindre de se tromper.
Monday, August 19, 202411:57 AM(View: 917)
1- Hầu hạ cha mẹ là pháp được người hiền trí tuyên bố - Kinh BỔN PHẬN – Tăng Chi Bộ I, tr270 2.- Được chấp nhận ngang bằng với Phạm Thiên. Kinh BẰNG VỚI PHẠM THIÊN – Tăng Chi Bộ I, tr 684 3.- Làm sao trả ơn đủ cho cha mẹ - Kinh ĐẤT – Tăng Chi Bộ I, tr 118
Thursday, August 15, 20247:28 PM(View: 910)
Le perfectionnement spirituel est un processus qui va du simple au plus difficile; la connaissance associée est peu solide au début, mais elle est progressivement transformée par l'apprentissage pour devenir de plus en plus explicite et solide.
Sunday, August 4, 202410:43 AM(View: 902)
Bằng những kỹ thuật của Thiền, ta có khả năng điều chỉnh được bệnh tâm thể. Chỉ vì bệnh tâm thể do những trạng thái tâm rối loạn như lo âu, sợ hãi, uất cảm, giận tức, sầu khổ, trầm cảm dây dưa gây ra. Trong lúc đó mục tiêu nhắm đến của Thiền, trước tiên là điều chỉnh những rối loạn của tâm. Thiền làm cho tâm được thư giãn, thanh thản, phấn chấn, và an tịnh.
Sunday, August 4, 202410:43 AM(View: 1247)
Uất cảm được định nghĩa là sự biểu lộ trạng thái tâm lý biến động, căng thẳng, không quân bình hay không xứng hợp giữa tri giác và nhận thức về những yêu cầu (demands), nhu cầu (needs), hay khả năng đối phó trước những tình hình khẩn trương đang xảy ra.
Tuesday, July 23, 20245:00 PM(View: 1204)
VIDEO& SLIDES: Ni sư Triệt Như Giảng Đại Chúng: TỔNG KẾT NHỮNG CÁCH TẬP THIỀN ngày 13 THÁNG 7, 2024 tại THIỀN ĐƯỜNG TÁNH KHÔNG Nam Cali
Sunday, July 21, 202411:46 AM(View: 873)
Zum Schluss: Was ist es? Meine Antwort lautet vorläufig: Es ist die Natur.“ Es ist es".
Tuesday, July 16, 20247:58 PM(View: 1181)
VIDEO Ni sư Triệt Như Giảng Đại Chúng tại Thiền Viện Tánh Không ngày 6 tháng 7, 2024 với chủ đề: NGHỆ THUẬT SỐNG GIỮA THẾ GIAN
Monday, July 15, 20244:07 PM(View: 869)
Es gibt zwei Faktoren, die zum Leid führen können. Es sind „Bonsai“ und „Mein“. Weil er mein ist, bedauerte ich sehr, als er eingegangen ist. Weil er mein ist, habe ich ihn ins mein Zimmer gestellt. Nicht nur ich habe eine Vorliebe für die Bonsai-Bäume.
Tuesday, July 9, 20248:40 PM(View: 1080)
Pháp tu quán Thân giúp hành giả nhận ra cấu trúc của con người chỉ là Ngũ uẩn, là Danh sắc. Danh sắc thuộc pháp hữu vi, có điều kiện, nên Ngũ uẩn chịu quy luật Vô thường-Khổ-Vô ngã, và có mặt ở trên đời này theo chu kỳ Sinh-Trụ-Hoại-Diệt.
Saturday, July 6, 20243:07 PM(View: 1077)
Ni sư Triệt Như Audio: Bài 237 - TỔNG KẾT VỀ DHAMMA 5-5-2024 TOULOUSE song ngữ
Friday, July 5, 20247:25 AM(View: 1838)
Kết lại, tất cả, nó là cái gì? Mình xin tạm trả lời “Nó là thiên nhiên. Nó là Như Vậy”.
Thursday, July 4, 20241:13 PM(View: 983)
Als Buddhistin habe ich auch Ehrfurcht vor dem Buddha und ich habe geglaubt, dass der Bodhi-Baum mir eine erleuchtete Weisheit darstellt. Daher gab es eine Zeit, in der ich mir einen eigenen Bodhi-Baum im Zimmer wünschte.
Monday, July 1, 202410:03 AM(View: 1357)
Qua số phận của cây bồ đề bonsai của mình, mình nhận ra tất cả vấn đề nằm ở 2 chỗ, 1 là “bonsai”, 2 là “của mình”. Vì là “của mình” nên mình mới xót xa, băn khoăn khi nó héo khô. Vì là “của mình” nên nó phải là "bonsai" để trang hoàng trong nhà cho mình ngắm.
Monday, June 24, 20242:07 PM(View: 1094)
Theo quan niệm nhà Phật thì con người tự ràng buộc mình trong nỗi khổ đau do chính mình gây ra (từ nghiệp cũ, nghiệp mới, ngũ dục, ngũ trần, tham, sân, si). Muốn thoát khổ thì phải tự mình tháo gở những sợi dây ràng buộc đó, chứ không Thần Phật nào cứu rỗi, ban ơn, giáng họa cho mình.
69,256