TÌM HIỂU KINH “BÁT ĐẠI NHÂN GIÁC”
I. DUYÊN KHỞI
Ở đời bất cứ sự kiện nào xảy ra cũng có nguyên do của nó. Như bài kinh “Bát Đại Nhân Giác” xuất hiện trên thế gian này cũng không ngoại lệ. (*) Kinh kể lại vào thời gian đức Phật trú ngụ tại tịnh xá Kỳ Viên. Trong một buổi Pháp hội, tôn giả A-Na-Luật là một trong số mười vị đại đệ tử của đức Phật đã chứng được thiên nhãn thông, thưa với Ngài rằng:
- Bạch đức Thế Tôn, bước đầu tu tập của người xuất gia là loại trừ tham, sân, ngã mạn, tật đố để bản thân có phẩm hạnh vô ngã, vị tha, và đem lại nhiều phước lạc cho mọi người... Bạch đức Thế Tôn, hiện nay Phật tử tại gia học đạo khá nhiều, đệ tử xuất gia tiếp cận xã hội hoằng Pháp lợi sinh cũng không ít. Làm thế nào để giúp các vị này tiến xa hơn đến chân trời giác ngộ, giải thoát và Niết bàn. Cúi xin đức Thế Tôn từ bi khai thị.
Đức Phật hoan hỷ dạy rằng:
- Này A-Na-Luật, lời nói của ông rất đúng. Người xuất gia cần phải trên cầu giác ngộ, dưới độ chúng sinh. Ngoài việc làm lợi ích cho nhân sinh, người xuất gia hằng ngày cần phải tự mình thực hành tám điều giác ngộ của bậc Đại nhân nhằm hướng đến mục tiêu giải thoát. Tôi sẽ vì câu hỏi của ông mà nói lên tám điều giác ngộ đó.
Đây chính là nguyên nhân, đức Phật giảng nói kinh “Bát Đại Nhân Giác”.
Kinh “Bát Đại Nhân Giác” được hiểu là “ tám điều giác ngộ của các bậc Bồ Tát” hay là “tám điều giác ngộ của các bậc đại nhân”. (**) Bài kinh này mang số 779 bằng chữ Hán trong bộ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, được Ngài An-Thế-Cao dịch từ tiếng Phạn sang Hán ngữ vào năm 148 Tây lịch. An-Thế-Cao là Thái tử xứ An Tức (Parthie), nay một phần thuộc Ba-Tư (Persia, Iran), một phần thuộc A-Phú-Hãn (Afghanistan). Vào thời điểm đó, đạo Phật từ Ấn Độ truyền sang vùng Trung Đông rất thịnh hành. Ngài An-Thế-Cao từ bỏ ngôi vua xuất gia tu học, sau khi giác ngộ nền minh triết của đạo Phật, Ngài đến Trung Hoa hoằng pháp và dịch quyển kinh này sang chữ Hán.
Bản kinh chữ Hán của Ngài An-Thế-Cao được nhiều vị tôn túc Việt Nam dịch sang Việt Ngữ và giảng dạy cho tăng ni cũng như cư sĩ. Duyên sự, có thiền sinh đặt câu hỏi về bộ kinh này, nên chúng tôi mạo muội chia xẻ bài “Tìm Hiểu Kinh Bát Đại Nhân Giác” để chúng ta cùng nhau ôn học.
II. BẢN VIỆT NGỮ KINH “BÁT ĐẠI NHÂN GIÁC”
Mở đầu kinh viết: Là người đệ tử Phật, ngày đêm phải luôn chí tâm tụng đọc và quán chiếu về Tám điều Giác Ngộ của các vị Đại Nhân.
-Điều giác ngộ thứ nhất: Thế gian vô thường, quốc gia nguy hiểm, mong manh. Bốn đại khổ, không. Năm uẩn không có ngã. Sinh diệt biến đổi, hư ngụy, vô chủ. Tâm là gốc của ác, thân là nơi chứa của tội. Hãy quan sát như thế thì dần dần sẽ xa rời sinh tử.
- Điều giác ngộ thứ nhì: Nhiều tham muốn sẽ khổ. Sinh tử nhọc nhằn là do khởi từ lòng tham muốn. Không tham muốn và không tạo tác thì thân tâm tự tại.
- Điều giác ngộ thứ ba: Cái tâm này không bao giờ biết đủ và mãi luôn mong cầu. Cho nên nó làm cho tội ác tăng trưởng. Bồ Tát thì không như thế. Các Ngài luôn có chánh niệm và biết đủ. Họ sống an nhàn, giản dị là để tu Đạo. Việc làm duy nhất của họ là tu tập trí tuệ.
- Điều giác ngộ thứ tư: Lười biếng dẫn đến trụy lạc. Phải luôn tu hành tinh tấn, phá phiền não ác, hàng phục bốn loại ma, và ra khỏi ngục tù của năm uẩn và ba giới.
- Điều giác ngộ thứ năm: Ngu si dẫn đến sinh tử. Vì lẽ đó nên Bồ Tát luôn ở trong chánh niệm cùng đa văn học rộng để trí tuệ tăng trưởng và thành tựu biện tài. Giáo hóa chúng sinh là niềm vui lớn nhất của các Ngài.
- Điều giác ngộ thứ sáu: Bần cùng khốn khổ nảy sinh nhiều oán hận và kết duyên ác ngang trái. Bởi vậy nên Bồ Tát luôn thực hành bố thí. Họ cư xử oan gia và thân thuộc bình đẳng như nhau. Các Ngài không ôm lòng tà ác hay căm ghét người xấu.
- Điều giác ngộ thứ bảy: Năm dục dẫn đến lỗi lầm và hoạn nạn. Dẫu cho là người tại gia thì cũng đừng bị dục lạc của thế gian làm nhiễm ô. Phải luôn tưởng nhớ đến ba y, bát sành và Pháp khí. Phải lập chí nguyện xuất gia, thanh tịnh tu Đạo, sống tịnh hạnh cao thượng và từ bi với tất cả.
- Điều giác ngộ thứ tám: Sinh tử ví như ngọn lửa cháy phừng và chúng mang theo vô lượng khổ não. Hãy phát tâm Đại thừa để rộng độ tất cả. Hãy nguyện vì chúng sinh mà thọ vô lượng khổ của họ và chỉ dẫn hết thảy đến niềm an lạc cứu cánh.
Đây là 8 điều mà chư Phật, Bồ Tát và các bậc đại nhân đã giác ngộ. Các Ngài tinh tấn hành Đạo, khởi lòng từ bi, siêng tu trí tuệ, và chèo thuyền Pháp thân đến bờ tịch diệt. Rồi sau đó lại trở về sinh tử để độ thoát chúng sinh. Các Ngài dùng tám điều trên để khai đạo tất cả, khiến các chúng sinh tỉnh ngộ nỗi khổ của sinh tử, xa lìa năm dục, và tu tâm nơi thánh Đạo.
Nếu đệ tử nào của Phật trì tụng tám điều này thì mỗi khi quán niệm, diệt được vô lượng tội, thẳng tiến về Phật đạo, và nhanh thành chánh giác. Họ vĩnh viễn sẽ đoạn trừ sinh tử và luôn sống an vui. (hết trích)
III. TÌM HIỂU Ý NGHĨA KINH “BÁT ĐẠI NHÂN GIÁC”
- Kinh: Là những lời dạy của đức Phật, được kết tập lại thành bộ gọi là kinh. Lời Phật dạy phù hợp với chân lý, thích hợp với căn cơ của chúng sanh, trải qua ba thời quá khứ, hiện tại, vị lai đều đúng. Kinh Phật nói ra nhằm giáo hóa chúng sanh, giúp họ ngộ ra lẽ thật, mà tu hành để được giải thoát.
- Bát: Là tám. - Đại nhân: Là người lớn. Người lớn ở đây, nên hiểu là người tu tập và giác ngộ thấy rõ các pháp đúng như thực. Là người phát tâm tu lục độ chứng dần từ Sơ địa tiến đến Thập địa, gọi là Bồ Tát. Khi tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn thì thành Phật. Các vị Bồ-Tát này, Phật gọi là đại nhân.
- Giác: Là biết, là trí tuệ tối thượng do tu chứng mà thành, chứ không phải cái biết theo kiến thức của người thế gian.
- Bát Đại Nhân Giác: Là tám điều giác ngộ của Phật và Bồ Tát.
Thông thường mở đầu mỗi bộ kinh đều có “lục chủng chứng tín” hay “lục chủng thành tựu”, tức là sáu điều chứng của ngài Anan nêu ra để người khác nghe mà đủ lòng tin vào pháp thoại Ngài tụng, là do Phật Thích Ca thuyết. Thí dụ bài “Kinh Tâm Hoang Vu” (Cetokhila sutta) thuộc Trung Bộ Kinh, mở đầu như sau:
“ Như vầy tôi nghe. Một thời, Thế Tôn ở Savatthi (Xá Vệ) tại Jetavana (Kỳ-đà Lâm), vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo: “Này chư Tỷ-kheo.” -- “Thưa vâng, bạch Thế Tôn”, các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn...” (hết trích)
Sáu chứng tín của bài “Kinh Tâm Hoang Vu” gồm những điều như sau:
1. Văn: “ Tôi nghe” nghĩa là tôn giả Anan nghe, rồi thuật lại.
2. Tín: “như vầy” chỉ pháp thoại mà Ngài Anan nghe Phật thuyết.
3. Thời: “Một thời” là thời gian nói Kinh.
4. Chủ: “Thế Tôn” là vị thuyết pháp.
5. Xứ: “ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika”, nơi Phật thuyết pháp.
6. Chúng: “Các Tỷ-kheo” là những người nghe Phật thuyết giảng.
Kinh “Bát Đại Nhân Giác” mở đầu không có phần này. Tại sao vậy? Hòa Thượng Thích Thanh Từ giải thích rằng: (**) “Vì lúc bấy giờ Phật pháp mới truyền vào Trung Quốc, người học Phật chưa thâm nhập giáo lý nhiều, nếu để trọn bộ kinh dày cho họ đọc, e không kham đọc nổi, nên Ngài An-Thế-Cao phương tiện rút từng phần tinh yếu của Phật pháp trong nhiều bộ kinh mà dịch, phân ra thứ tự tám điều giác ngộ, thành Kinh “Bát Đại Nhân Giác”, để cho người mới phát tâm tu học dễ nắm được những điểm thiết yếu”.
- Điều giác ngộ thứ nhất: Nhận diện vạn pháp mong manh, biến đổi, vô thường. Vũ trụ thì do bốn đại kết hợp mà thành. Bốn đại đó là thủy đại, địa đại, phong đại và hỏa đại. Chỉ cần một đại hư hoại thì cả vũ trụ cũng tàn lụi theo. Con người do tập hợp của năm ấm: sắc, thọ, tưởng, hành và thức. Sắc là vật chất, là thân người có thể xúc chạm và nhìn thấy. Thọ là cảm giác đau đớn, cảm thọ buồn vui, hận ghét. Tưởng là tri giác do hình ảnh tưởng tượng hiện lên trong đầu. Hành là phản ứng của tâm. Thức là cái biết phân biệt so sánh. Năm ấm còn gọi là năm uẩn. Mỗi ấm thành hình, cũng do nhiều điều kiện khác nhau hợp lại mà thành, nên thực chất năm ấm không có chủ quyền, không thực ngã, do đó nó sinh diệt thay đổi không ngừng. Nếu chấp năm ấm là thật, là ta, là của ta... thì khổ, vì danh sắc sẽ hư hoại bất cứ lúc nào!
Nói tâm là nguồn gốc của ác, vì gốc của tâm sẵn chứa tam độc tham, sân, si, lại nữa ngày đêm vọng tưởng tốt xấu luôn tiếp diễn huân tập trong tâm tạo thành ý nghiệp. Nói thân là chỗ chứa nhiều tội lỗi, vì thân là nơi tạo nhiều nghiệp xấu ác qua lời nói (khẩu nghiệp) và hành vi làm khổ mình khổ người (thân nghiệp). Nếu chúng ta thường quán xét như thế, thì dần dần xa lìa nỗi khổ sinh tử.
– Điều giác ngộ thứ hai: Hiểu rằng càng tham muốn nhiều chừng nào thì thân tâm càng khổ nhiều chừng đó. Phải biết bao nhiêu nỗi lo buồn, cực nhọc cả đời của con người đều do từ lòng tham muốn, khát ái mà ra. Nếu tâm ít ham muốn, ít chạy theo nhu cầu ngũ dục, thì thân tâm sẽ được bình ổn, nhẹ nhàng.
– Điều giác ngộ thứ ba: Giác ngộ rằng tâm người phàm phu luôn đầy vẫy những lậu hoặc, tham khát ngũ dục: tài, sắc, danh, thực, thùy... Càng dính mắc và nô lệ ngũ dục càng nhiều, thì nghiệp ác gây ra càng lớn. Các bậc Bồ Tát thì không như thế. Bồ Tát là những vị tu tập để thành Phật. Dù cũng sống lăn lộn trong biển khổ nhưng các Ngài luôn giữ chánh niệm, nghĩ nhớ đến pháp tri túc, sống đạm bạc an vui, để tâm cho việc tu hành phát huy tuệ giác.
- Điều giác ngộ thứ tư: Giác ngộ rằng sự lười biếng khiến con người uể oải, mệt mỏi, lâu ngày tự tìm thú vui hưởng thụ, dễ sa vào trụy lạc, làm nhiều điều xấu ác. Là người học đạo phải tinh tấn tu tập để xua tan phiền não, hàng phục bốn loại ác ma, ra khỏi ngục tù của năm uẩn và ba giới. Bốn loại ác ma gồm:
1. Phiền não ma: Là sợi dây trói buộc của tam độc (tham, sân, si) gây não hại thân tâm, phá hoại đường tu đạo.
2. Ngũ ấm ma: Là lục căn, lục trần và lục thức (thập bát giới). Là tất cả những hiện tượng tinh thần, vật chất xung quanh vây hãm, che lấp trí huệ thanh tịnh, ngăn cản công đức thiện lành không cho phát triển. Nếu người tu chưa nhận ra “Tam giới duyên khởi tánh không”, chấp trước khi thân đạt chư pháp không tướng, thì người đó đang bị ngũ ấm ma khống chế. Nếu quán không tịch, tất cả vạn pháp, hữu vi, hay vô vi đều bất khả đắc, tức thì ma cảnh biến mất.
3. Tử ma: Tử ma, là khi 4 đại phân tán, cái chết ngăn chận sự kéo dài huệ mạng. Hoặc khi phát tâm tu chánh đạo, nửa chừng lâm trọng bệnh mạng chung hoặc bị hại chết. Hoặc lúc tu hành thì sanh tâm sợ chết không được hưởng thụ dục lạc, vội bỏ đạo nửa chừng. Tất cả những hoàn cảnh đó, là do bị tử ma sở nhiếp.
4. Thiên tử ma: Là ma vương ở trong tầng Trời thứ 6 của Dục giới (Tha Hóa Tự Tại), Thiên tử ma rất sợ đệ tử của Phật tu hành đắc đạo lìa khỏi dục giới, nên sai khiến chư quỷ thần quyến thuộc ma tâm đến cám dỗ, xúi giục phá hoại thiện căn phước lành của người tu. Có khi ma quân hiện ra các hình ảnh ghê rợn khủng bố tinh thần người tu. Có khi hiện ra hình ảnh nhu hòa khả ái để quyến rủ người tu. Có khi hiền lành dễ mến, có lúc hung tợn dữ dằn quấy nhiễu làm cho tinh thần người tu rối loạn sợ hãi bất an.
Để đối trị với ma quân nhiễu loạn, hành giả nên tỉnh thức liễu tri tất cả sở hữu kiến, văn, tư tưởng... đều không thực chất chất tính, bổn lai không tự sanh. Xem tất cả như không có gì, thì ma cảnh biến mất. Chúng ta nhớ lại gương đức Phật Thích Ca trước khi thành đạo Vô Thượng Chánh Đẳng Giác cũng bị vô số ma quân quấy nhiễu. Cuối cùng tất cả ma quân đều bị đức Phật hàng phục.
- Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới: Là ba cõi sống của chúng sanh. Dục giới là cõi sống của loài người. Loài người là những chúng sinh có thân, có ý thức, và có lòng tham dục. Sắc giới là cõi sống của loài Trời. Loài Trời là chúng sanh không còn dục vọng, nhưng còn sắc thân vi tế. Vô sắc giới là cõi giới cao hơn, chúng sanh ở cõi này không còn lòng dục cũng không có sắc thân, chỉ còn tinh thần thuần túy mà thôi!
- Điều giác ngộ thứ năm: Phải giác ngộ nguyên nhân của luân hồi sinh tử là vô minh (ngu si), vì thế chúng ta phải noi gương các bậc Bồ Tát học rộng, nghe nhiều về Phật pháp. Hiểu rõ điều đã nghe, rồi phải thực hành, để trải nghiệm thân chứng tâm chứng, phát huy tuệ giác, đạt được biện tài vô ngại, hầu có khả năng giáo hóa mọi người theo tinh thần tự độ, độ tha.
- Điều giác ngộ thứ sáu: Giác ngộ rằng con người sinh ra trong hoàn cảnh nghèo nàn khốn khổ, phần đông thường bị giam hãm trong oán hận và căm thù, do đó họ tạo nhiều nghiệp xấu ác, phải chịu quả khổ. Các bậc Bồ Tát thương xót họ nên thường thực hành hạnh bố thí không phân biệt kẻ thân người sơ. Đối với những người gian ác hay những người đã từng gây phiền não cho mình, các Ngài cũng bỏ qua và đối xử bình đẳng, giúp đỡ họ không phân biệt. Đây gọi là bố thí ba-la-mật.
- Điều giác ngộ thứ bảy: Giác ngộ rằng năm thứ ham muốn: sắc, thanh, hương, vị và xúc pháp (ngũ trần) gây nên tội lỗi và hoạn nạn. Dù là Phật tử tại gia cũng nên né tránh không để những thứ dục vọng này quyến rủ. Nên nuôi chí nguyện xuất gia. Là người xuất gia, khi vào đời hóa độ chúng sanh nên biết rằng tài sản của người xuất gia chỉ ba y, một bát, tứ sự khác như: thức ăn, thuốc men, y áo, sàng tọa, chỉ là pháp khí vừa đủ nuôi dưỡng tấm thân để tu đạo. Đối với tự thân luôn giữ giới hạnh nghiêm minh, thanh bạch. Đối với chúng sanh một lòng từ bi thương xót.
- Điều giác ngộ thứ tám: Giác ngộ rằng sinh tử như ngọn lửa đang cháy phừng thiêu đốt mọi loài. Con người vì si mê chấp nhận luân hồi sinh tử hết đời này sang đời khác thật vô cùng thống khổ. Biết thế, nên chúng ta lo tu tập để tự giải thoát mình, nhưng không quên noi gương các vị Bồ Tát phát tâm quảng đại, nguyện thay thế chúng sanh chịu khổ và giúp cho họ đạt được cứu cánh Niết-Bàn.
Đó là tám điều mà Phật và Bồ Tát đã làm và đã giác ngộ. Khi thành Đạo rồi, các Ngài trở lại con đường sinh tử để hóa độ chúng sanh. Các Ngài khai thị hướng dẫn chúng sanh tu tập theo tám điều giác ngộ nêu trên.
Là đệ tử Phật nếu chuyên cần đọc tụng, thực hành tám điều dạy này, sớm muộn gì chúng ta cũng sẽ dần dần xa lìa, nếu không nói là sau cùng cũng vĩnh viễn đoạn tuyệt với sinh tử, sống đời an vui.
IV. KẾT LUẬN
Đạo Phật là đạo từ bi và trí tuệ. Đọc tụng bài kinh “Bát Đại Nhân Giác” chúng ta học theo tinh thần từ bi, lấy trí tuệ làm sự nghiệp của chư Phật, chư Bồ tát. Kinh nhắc nhở chúng ta tám điều quan trọng cần phải học hỏi tu tập. Đó là phải luôn quán xét vạn pháp trong đó có tấm thân ngũ uẩn của con người không thực chất tính nên nó vô thường, khổ, không, vô ngã... Giác ngộ về vô thường vô ngã chúng ta sẽ không còn tham cầu mong muốn thỏa mãn ngũ dục cá nhân. Chúng ta học bài thiểu dục tri túc, vui sống đời đạm bạc, nuôi lớn chí nguyện xuất gia.
Học pháp Phật, chúng ta biết rằng vô minh là nguyên nhân đưa đến đau khổ, luân hồi sinh tử, vì vậy chúng ta phải hình thành tuệ giác, qua lộ trình văn-tư-tu, trước hết tìm cách gần gủi các bậc thiện tri thức, nghe giảng Phật pháp, tư duy về Phật pháp, rồi thực hành để trải nghiệm thân chứng, tâm chứng, phát huy trí huệ, biện tài vô ngại, hầu có khả năng để giúp đỡ người khác.
Tóm lại, là cư sĩ hay phàm tăng sinh ra trong thời mạt pháp, chúng ta cùng đi chung trên con đường bụi bặm của thế gian. Tự vấn lòng, hiểu rằng đạo nghiệp chúng ta hãy còn yếu kém, bởi đâu đó trong tâm vẫn còn tham ái, tật đố, ngu si, lười biếng, ích kỷ ... Biết như thế, chúng ta cần noi gương các bậc Đại nhân, tâm niệm về tám điều giác ngộ nêu trên, giữ tâm đoan chính, lập chí tu học vững bền, miên mật công phu, để không bị ngũ dục lôi cuốn, hầu nâng cao phẩm hạnh đạo đức giúp ích cho đạo, lợi lạc cho đời, và lấy đó làm tư lương cho con đường tâm linh tiến đến chân trời giác ngộ giải thoát.
Trước khi chấm dứt bài viết, nguyện cho tất cả mọi người, những ai nghe, thấy, đọc bài kinh “Bát Đại Nhân Giác” đều phát tâm tu tập để được an vui ngay trong đời thường...
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
THÍCH NỮ HẰNG NHƯ
(An Cư Kiết Xuân 14/2/2023 tại Thiền Viện Chân Như, Navasota, TX)
Chú thích:
(*) Trong bài viết “Nghĩ về 6 điều giác ngộ của bậc Đại Nhân”, tác giả: TT. Thích Phổ Huân ghi nhận theo lời Đại Sư Tịnh Vân. (Đại Sư vừa viên tịch tại Đài Loan vào lúc 5 giờ sáng, ngày 06/2/2023 hưởng đại thọ 97 tuổi, 85 năm đại hạ. Chúng con hàng hậu học kính góp lời cầu nguyện cung tiễn đại lão Hòa Thượng về cõi Phật thanh tịnh. Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật) .
(**) Lời đầu sách “Kinh Bát Đại Nhân Giác” của Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Thanh Từ.