HỘI THIỀN TÁNH KHÔNG TRUNG ƯƠNG

DD0453 HL Trần Văn Đạt BIÊN KHẢO - Bài 3/4: Các THIỀN PHÁI CHÍNH Ở VIỆT NAM TRONG THỜI ĐỘC LẬP PHONG KIẾN

21 Tháng Mười Một 20222:02 CH(Xem: 1177)

Thử Tìm hiểu Thiền Tông Việt Nam:
Bài 1/4: PHẬT GIÁO VÀ THIỀN THỜI CỔ ĐẠI Ở VIỆT NAM
https://www.tanhkhong.org/a3437/phat-giao-va-thien-thoi-co-dai-o-viet-nam
Bài 2/4: HAI THIỀN PHÁI XUẤT HIỆN THỜI BẮC THUỘC
https://www.tanhkhong.org/a3440/dd0448-hl-tran-van-dat-bien-khao-bai-2-4-hai-thien-phai-xuat-hien-thoi-bac-thuoc
Bài 3/4: Các THIỀN PHÁI CHÍNH Ở VIỆT NAM TRONG THỜI ĐỘC LẬP PHONG KIẾN
https://www.tanhkhong.org/a3457/bai-3-4-cac-thien-phai-chinh-o-viet-nam-trong-thoi-doc-lap-phong-kien
Bài 4/4: CÁC THIỀN SƯ LÃO THÀNH NỔI BẬT HIỆN NAY
https://www.tanhkhong.org/a3468/dd0457-hl-tran-van-dat-bien-khao-bai-4-4-cac-thien-su-lao-thanh-noi-bat-hien-nay

Bài 3/4:
Các THIỀN PHÁI CHÍNH Ở VIỆT NAM
TRONG THỜI ĐỘC LẬP PHONG KIẾN

(939-1.884)

 

H.L. Trần Văn Đạt

 

Thiền tông Việt Nam đã trải qua nhiều thăng trầm trong suốt thời kỳ độc lập quân chủ phong kiến, bắt đầu từ Ngô Quyền đánh đuổi giặc Bắc phương và giành độc lập xứ sở cho đến triều đại Nhà Nguyễn và thực dân Pháp chiếm đóng. Thời cực thịnh của Phật giáoThiền tông kéo dài khoảng 400 năm, từ nhà Đinh-Lê đến Lý-Trần, cùng với sự xuất hiện của hai thiền phái nổi tiếngThảo Đường được truyền từ Trung Quốc vào Đại Việt trong thế kỷ thứ 11 dưới thời nhà Lý và đặc biệt thiền phái Trúc Lâm khởi xướng trong nước bởi Đầu Đà Trần Nhân Tông vào thế kỷ thứ 13. Đến khi nhà Trần chấm dứt, Thiền tông cũng như Phật giáo bước vào thời kỳ suy thoái khoảng 200 năm từ khi nhà Hồ tiếm ngôi đến Hậu Lê. Sau đó, tôn giáo này được phục hưng, nhứt là trong thời Trịnh - Nguyễn phân tranh, với sự ra đời của thiền phái Tào Động ở Đàng Ngoài, phái Lâm Tế (cả 2 phái từ Trung Quốc) và dòng Liễu Quán ở Đàng Trong. Vào thời Nhà Nguyễn và buổi đầu Pháp thuộc, các hoạt động thiền giáo im lặng hơn do các chính sách nhà nước bất lợi. Với trào lưu tiến bộ đang xảy ra trên thế giới, các nhánh Thiền tông Việt Nam mới có cơ hội tiếp tục con đường phục hưng và phát triển mạnh mẽ, đặc biệt từ hậu bán thế kỷ thứ 20 đến nay

 
1.      Thời nhà Lý (1.054-1.275)

  • Thế kỷ thứ 11 - Thiền phái Thảo Đường [1,2,3] (Biểu đồ VII. 4)
Các Thiền phái chính ở VN  1

Chùa Trấn Quốc, nơi trụ trì của thiền sư Thảo Đường khi xưa

Cũng giống như thời Đinh-Lê trước đó, nhiều nhà sư tham gia chính sự dưới triều đại nhà Lý, nhưng giới hạn trong việc giáo hóagiảng kinh. Trong thời kỳ này, thiền phái thứ ba Thảo Đường từ Trung Quốc truyền sang Việt Nam. Ngài Thảo Đườngthiền sư Trung Quốc thuộc tông Vân Môn sống vào đời Tống, đệ tử của Thiền sư Tuyết Đậu Trùng Hiển (tịch 1.052) nhân đi qua nước Chiêm Thành truyền đạo, bị người Chiêm bắt làm lính. Trong chiến tranh Việt - Chiêm dưới thời vua Lý Thánh Tông (1.022-1.073), sư và nhiều lính Chiêm bị Việt Nam bắt làm tù binh sau đó sư được phóng thích. Do một số duyên lành, Ông được vua LýThánh Tôn nể phục cho trụ trì chùa Khai Quốc tại kinh thành Thăng Long, bắt đầu khai giảng kinh điển, mở rộng tông phái, chủ yếu truyền Tuyết Đậu Bách Tắc và đề xướng Thiền Tịnh nhất trí. Về sau, Sư truyền giới cho vua Thánh Tông, đồng thời truyền thụ Thiền tông tâm pháp, nhờ đó nhà vua ngộ đạo và phong cho Sư Thảo Đường làm Quốc sư.

Thiền phái Thảo Đường của Việt Nam được thành lập vào năm 1.069, gồm cóthế hệ, trong đó các Đại sư Bát Nhã (thế hệ 2), Không Lộ, Định Giác (thế hệ 3) là những Đại sư nổi tiếng. Thiền phái Thảo Đường chủ trương Phật giáo đồng hành với Nho Giáo và có khuynh hướng về thiền học trí thức và thi ca nên rất gần gũi với các tầng lớp trí thức và quý tộc, gồm vua quan và một số cư sĩ học rộng; nhưng không đi sâu hòa nhập vào quần chúng. Điều này đã gây ra nhiều ảnh hưởng đến Phật giáo thời Trần sau này.

Quyển sách cổ Thiền Uyển Tập Anh[1] có ghi lại tên họ 19 vị thiền sư thuộc thiền phái Thảo Đường, nhưng thiếu thông tin về tiểu sử, niên đại, các bài truyền thừa của mỗi vị. Trong số 19 người này chỉ có 10 vị xuất gia: Thảo Đường, Thiệu Minh, Phạm Âm, Đỗ Đô, Trương Tam Tạng, Chân Huyền, Hải Tịnh, Bát Nhã, Không Lộ và Định Giác (Ba vị sau cuối có khuynh hướng Mật giáo; Không Lộ và Định Giác (tức Giác Hải) đồng thời cũng thuộc thiền phái Vô Ngôn Thông) và có 9 vị là cư sĩ, mà đa số là vua quan: Thánh Tông, Anh Tông và Cao Tông là vua, Ngô Ích, Đỗ Vũ, Đỗ Thường, Nguyễn Thức là quan tham chính. Do đó, Thiền phái Thảo Đường đã không thể tạo nên một truyền thống sinh hoạt tăng viện độc lập có thể lưu truyền về sau, trở nên mai một cùng với sự mất quyền bính nhà Lý về tay nhà Trần [3].

 
2.      Thời nhà Trần (1.225-1.400)

  • Thế kỷ thứ 13 - Thiền phái Trúc Lâm [2,3,4] (Biểu đồ VII. 3)

Nhà Trần thay nhà Lý nắm quyền kế thừa và phát triển thêm nền tảng văn hóa xã hội đã có trước đó, bao gồm đạo Phật. Dưới thời nhà Trần, do ảnh hưởng lớn lao của vua Trần Thái TôngTuệ Trung Thượng Sĩ, ba thiền phái Tỳ-ni-đa-lưu-chi, Vô Ngôn ThôngThảo Đường dần dần sát nhập vào nhau để hình thành lớn mạnh của thiền phái Yên Tử thành thiền phái Trúc Lâm, tức là thiền phái duy nhất dưới nhà Trần. Thời đại này có thể gọi là thời Phật giáo Nhất Tông. Tông phái này phát xuất từ núi Yên Tử mà vị tổ khai sơnthiền sư Hiện Quang (~1.220) ở chùa Hoa Yên trên núi Yên Tử, đệ tử của thiền sư Thường Chiếu chùa Lục Tổ[2] [3]

Năm 1.299, vua Trần Nhân Tông (1.258-1.308) xuất gia tại chùa Hoa Yên, lấy hiệu là Hương Vân Đầu Đà, sau này vua đổi hiệu là Trúc Lâm Đầu Đà (cần biết vị tổ thứ hai của thiền phái Yên Tửthiền sư Đạo Viên (hay Viên Chứng) trước kia đã được ban hiệu là Trúc Lâm Quốc Sư). Vua Nhân Tôn được nhận là người truyền thừa chính thức của phái Yên Tử, thế hệ thứ sáu, tiếp nối vị tổ sư thứ năm là thiền sư Huệ Tuệ và Ngài là tổ thứ nhất của phái Trúc Lâm [3]. Từ đó trở đi, thiền phái Yên Tử trở nên nổi tiếng, thế lực lan rộng trong triều đình và ngoài quần chúng

Lúc đương thời, Vua Trần Nhân Tông học Thiền với Tuệ Trung Thượng Sĩ (đệ tử của Thiền sư Tiêu Dao), người được xem là đã kiến tánh giác ngộ, sau đó vua nhường ngôi cho con và xuất gia tu hành theo đạo Phật. Trong hai cuộc chống Mông Cổ xâm lược Đại Việt lần thứ hai và thứ ba, Nhân Tông cùng cha là Thái Thượng Hoàng Thánh Tông là những vị chỉ huy tối cao đã dành những thắng lợi cuối cùng cho đất nước và mang đến một thời kỳ thái bình thịnh trị lâu dài cho dân tộc.

TRÚC LÂM ĐẦU ĐÀ
Thiền phái Trúc Lâm là một dòng thiền Phật giáo mang bản sắc văn hóa Việt Nam với tinh thần nhập thế. Thiền phái này là sự kết hợp và kế thừa Tư tưởng của ba phái chủ yếu bấy giờ: Tỳ-ni-đa-lưu-chi, Vô Ngôn Thông và Thảo Đường. Do đó, tư tưởng chính của Trúc Lâm Yên Tửdung hợp đạo với đời, tinh thần “hòa quang đồng trần” (hòa đồng từ vua tới dân) và dung hợp Phật giáo với Nho giáo, Lão giáo và các tư tưởng khác [5,6].

Ba vị tổ quan trọng nhất của thiền phái Trúc Lâm là Trần Nhân TôngPháp Loa và Huyền Quang. Hệ thống truyền thừa của thiền phái Trúc Lâm gồm có 18 vị thiền sư: 1. Tổ sư Trần Nhân Tông, 2. Pháp Loa, 3. Huyền Quang, 4. An Tâm, 5. Phù Vân Tĩnh Lự, 6. Vô Trước, 7. Quốc Nhất, 8. Viên Minh, 9. Đạo Huệ, 10. Viên Ngộ, 11. Tổng Trì, 12. Khuê Sâm, 13. Sơn Đăng, 14. Hương Sơn, 15. Trí Dung, 16. Huệ Quang, 17. Chân Trụ, 18. Vô Phiền (xem Biểu đồ bên dưới).

Thời đại Phật giáo nhập thếViệt Nam gọi là Trúc Lâm Yên Tử chỉ hưng thịnh cho đến giữa thế kỷ thứ 14. Sau đó, phong trào yếu dần do thiếu sự nâng đỡ của những vì vua có đạo Phật, từ từ xuống dốc, các chùa ở kinh đô Thăng Long không còn giữ vai trò quan trọng về chính trị và đa số thiền sư lỗi lạc rút lui về ẩn mình ở các miền sơn lâm thôn dã.

 
3. Thời Hậu Lê

  • Từ đầu thế kỷ thứ 15 đến đầu thế kỷ thứ 17, Thiền giáo bắt đầu suy yếu.

Có thể nói trong hai thời đại Lý - Trần qua gần 400 năm, Phật giáo Việt Nam phát triển cực thịnh, xây dựng nhiều công trình văn hóa độc đáo và kiến trúc vĩ đại,với sự tham gia tích cực của các vị Thiền sư dưới danh nghĩa Quốc sư hay Cố vấn cấp cao của các nhà lãnh đạo quốc gia. Khi nhà Trần sụp đổ Thiền giáo suy yếu dần. Phật giáo không còn tham gia trực tiếp vào việc triều chính; nguyên do chính là sau khi tiếm quyền, Hồ Quý Ly thực hiện một số biện pháp nhằm làm giảm ảnh hưởng chính trị của nhà Trần và đạo Phật trong khoảng thời gian 1.400-1.407. Hơn nữa, nhiều Nho sĩ trọng từ chương, tôn vinh trí thức nên không ưa đạo Phật vốn trọng tinh thần bao dungbình đẳng, bên cạnh các tệ nạn của hiện tượng Phật giáo xuống dốc. Chẳng hạn, các đại thần Lê Quát, Trương Hán Siêu đã công khai chỉ trích đạo Phật [1]. Ngoài ra, việc nhà Minh xâm lược Đại Việt đầu thế kỷ thứ 15 cùng chính sách tận diệt nền văn hóa độc lập của đất nước, đã hủy diệt không những truyền thống của đạo Phật tại Việt Nam mà cả truyền thống dân tộc bản xứ. Sau đó, khi nhà Hậu Lê thành lập, nhất là từ lúc vua Lê Thánh Tông (1.442-1.497) lấy Nho giáo làm quốc học đạo Phật chính thức suy thoái trong thời gian dài 200 năm.

 

  • Từ giữa thế kỷ thứ 17 đến thế kỷ thứ 18: Giai đoạn Thiền giáo phục hưng.

Sau giai đoạn suy yếu nêu trên, cũng có một số hoạt động đáng kể đóng góp vào phục hưng nền Phật giáoThiền tôngViệt Nam, với xuất hiện hai dòng thiền Tào ĐộngLâm Tế từ Trung Quốc truyền vào Việt Nam trong thời chuyển tiếp từ nhà Minh qua nhà Thanh ở Trung Quốc. Khi đất nước Đại Việt chia ra Đàng Ngoài và Đàng Trong thì Phật sự ở Đàng Ngoài ít tích cực hơn Đàng Trong [3], vì các chúa Nguyễn Đàng Trong muốn lấy tinh thần đạo Phật làm cơ sở cho phát triển dân tộc trong quá trình lập quốc ở phương Nam; trong lúc Đàng Ngoài lâm vào cảnh tranh quyền đoạt lợi. Dấu ấn nổi bật ở Đàng Ngoài là hoạt động phục hưng thiền giáo nổi tiếng của Thiền sư Chân Nguyên (1.646 – 1.726) và Thiền sư Hương Hải (1.627 – 1.715) và ở Đàng Trong có Thiền sư Nguyên Thiều (? – 1.695) và Thiền sư Liểu Quán (1.666 – 1.742) [4].

 

-          Giữa thế kỷ thứ 17: Thiền phái Lâm Tế [5,9,10]
Là một nhánh Thiền Nam tông quan trọng của tổ sư Lâm Tế Nghĩa Huyền (?-866) từ Trung Quốc truyền vào Việt Nam trong thế kỷ thứ 17 rồi phát triển mạnh tại Đàng Trong. Thiền phái Lâm Tế cũng được truyền vào miền Bắc Việt Nam bởi thiền sư Chuyết Chuyết, người Trung Quốc và trong phái này có Thiền sư Chân Nguyên là người có công khôi phục dòng Thiền Trúc Lâm.

Thiền Lâm Tế chủ trương thực hành thiền qua công án do các Đại sư sưu tập. Dòng Thiền này đặc biệt chú ý đến tầm quan trọng của Đốn ngộ nên thuở xưa dùng những hình thức không bình thường như một tiếng hét, một cái tát, cái đập gậy hay những công án khác. Phái Lâm Tế cũng không quan tâm nhiều việc tụng kinh điển và thờ tượng Phật, nhưng hướng về Phật tánh trực tiếp bằng những công án và tu tập sống thực.

Tuy nhiên, nhiều Phật tử hiện nay của dòng Lâm Tế áp dụng Thiền, Tịnh, Mật cùng tu. Phật tử vừa thực hành thiền định vừa tụng kinh theo thời khóa của Tịnh độ. Các Thiền sư dòng Lâm Tế vừa là Thiền sư, vừa là dịch giả, vừa là người trì kinh, niệm Phật, trì chú [5].

 Thiền phái Lâm Tế

-          Cũng giữa thế kỷ thứ 17: Thiền phái Tào Động [1,2,3]
Được truyền vào Đàng Ngoài bởi Thiền sư Thông Giác Thủy Nguyệt (1.636-1.704), quê quán Thái Bình, sau sáu năm tu học ở Trung Quốc với Thiền sư Nhất Cú Trí Giáo. Thiền sư Thủy Nguyệt về nước, trú tại chùa Vọng Lão,  Hải Dương, thành lập Thiền phái Tào Động tại Đàng Ngoài, phát triển mạnh mẽ hơn 100 năm. Pháp tu chính yếu của dòng Thiền này là Thiền Mặc chiếu[3] với chủ trương tọa thiền yên lặng để khai ngộ. Về sau, tuy Thiền phái này có dấu hiệu suy thoái nhưng không bị mai một. Đến nay khá nhiều chùa và chư tăng ni thuộc Thiền phái Tào Động có mặt ở nhiều tỉnh thành miền Bắc, như chùa Trấn Quốc, Hàm Long, Hòe Nhai... ngày nay vẫn được xem là truyền thừa của dòng thiền này [5,7,8].

Ở Đàng Trong, chúa Nguyễn Phúc Trăn mời Thiền sư Thạch Liêm đời thứ 29 từ Quảng Đông sang chùa Thiền Lâm ở Miền Trung (Huế), truyền Thiền phái Tào Động. Tư tưởng Thiền của Thạch Liêmhành đạo Thiền - Tịnh song tu, phối hợp Thiền địnhTịnh độ, đưa giáo pháp đến đại chúng. Càng về sau, Tào Động có ảnh hưởng và mang đậm tư tưởng Thiền khán thoại đầu của tông Lâm Tế và thuyết Tam giáo đồng nguyên (Phật, Nho và Lão), cho nên hai dòng thiền này có xu hướng hình thành Lâm - Tào song hợp ở các đạo tràng [4] (Biểu đồ VII. 5).

 Thiền phái Tào Động

-          Thế kỷ thứ 18 - Dòng thiền Liễu Quán[5,9,11]: Ngoài các dòng trên, tại Đàng Trong có một hệ truyền thừa ảnh hưởng rất sâu rộng cho đến nay, đó là dòng Liễu Quán do thiền sư Liễu Quán (1.666 - 1.742) [11] thuộc thế hệ thứ 35 dòng Lâm Tế thành lập trong nước. Sư tên Lê Thiệt Diệu, làng Bạch Mã, huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên  (Sông Cầu bây giờ). Lúc sáu tuổi, Sư mồ côi mẹ, cha đem đến chùa Hội Tôn thọ giáo với Hòa thượng Tế Viên (người Trung Quốc). Được  bảy năm thì Hòa thượng tịch, Sư ra Thuận Hóa xin học với Giác Phong Lão Tổ (người Trung Quốc) ở chùa Báo Quốc. Năm 1695, Sư lại trở ra Thuận Hóa thọ giới Sa-di với Hòa thượng Thạch Liêm. Năm 1.697, Sư thọ giới cụ túc với Lão Hòa thượng Từ Lâm (người Trung Quốc) ở chùa Từ Lâm. Năm 1.699, Sư đi tham lễ khắp Thiền lâm trải qua biết bao sự khó khăn khổ nhọc. Ngài được Đại sư Minh Hoằng Tử Dung (nguyên quán Quảng Đông, đời thứ 34 dòng Lâm Tếkhai sơn chùa Ấn Tôn, truyền tâm ấn Lâm Tế cho Đại sư Liễu Quán vào 1.708.

      Hòa thượng Liễu Quán có hàng ngàn đệ tử xuất giacư sĩ, trong đó có 49 đệ tử nối truyền Tông pháp. Sư là Tổ khai sơn chùa Thiên thai Thiền tông ở Huế. Tăng đồtín đồ miền Trung và miền Nam hiện nay hầu hết là thuộc dòng Lâm Tế, mà người có công khai hóa hơn hết chính là Sư Liễu Quán. Vì thế dòng thiền này trở thành một nhánh lớn gọi là Liễu Quán và Sư là Sư-tổ của dòng phái này.

Thiền sư Liễu Quán
Quả vậy, thiền sư Liễu Quán đã mang một luồn gió mới vào phái Lâm Tế trở thành một thiền phái linh động, có màu sắc dân tộc Việt Nam, nhứt là ở Đàng Trong, không còn bóng dáng Quảng Đông ngày trước. Bốn vị đệ tử lớn của dòng Liễu Quán là Tổ Huấn, Trạm Quan, Tế Nhân và Từ Chiếu đã thành lập bốn trung tâm hoằng đạo lớn, và hàng chục tổ đình được xây dựng khắp Đàng Trong trong thế kỷ thứ 18. Phong trào Phật giáo phục hưng ở thế kỷ thứ 20 đã dựa trên cơ sở của môn phái này[12].

    Vốn xuất thân từ thiền phái Lâm Tế, dòng Liễu Quán vẫn theo truyền thống tâm truyền tâm, truyền công ánthoại đầu. Đây là lần thứ hai trong lịch sử Phật giáo Việt Nam có được một dòng Thiền mang đậm phong cách văn hóa Phật giáo Việt với vị Tổ sư người Việt sau thiền phái Trúc Lâm thời Trần. Hiện nay, thiền phái này còn tồn tại nhiều nơi ở Thừa Thiên, Huế. Thiền sư Nhất Hạnh (1.926-2.022), xuất thân từ chùa Từ Hiếu, thuộc thế hệ thứ 8 dòng Liễu Quán và thứ 42 dòng Lâm Tế [5].

 
4.       Thời nhà Nguyễn - Pháp thuộc: Thế kỷ thứ 19 đến 1.954

Sau khi lật đổ nhà Tây Sơn, vua Gia Long tìm mọi cách hủy bỏ hoặc làm giảm bớt giá trị các thành quả của triều đại trước, đặc biệt trong lãnh vực văn hóa xã hội như dùng chữ Hán thay thế chữ Nôm, nâng cao sùng bái Nho học; do đó Phật giáoThiền tông thiếu sự hỗ trợ, dẫn dắt dù các chùa trong nước rất nhiều, nhưng hoạt động riêng rẽ, thiếu tổ chức gây ra tình trạng suy đồi xuống dốc.

Ngoài ra, chính sách bài ngoại và kỳ thị tôn giáo của triều đình Nguyễn trở thành lý do để Pháp thôn tính Việt Nam rồi sau đó thực dân cũng bắt đầu chèn ép Phật giáo bản xứ hiện hành qua chủ trương thiên vị ủng hộ Kitô giáo. Trước tình hình đó trong thế kỷ thứ 20, một phong trào chấn hưng và cải tổ được khởi xướng từ Thiền sư Khánh Hòa tại miền Nam, thiền sư Phước Huệ tại miền Trung và thiền sư Thanh Hanh ở miền Bắc. Nhiều hội nghiên cứu Phật học, hội Phật giáo, nhiều đạo tràng, trường Phật học được thành lập. Nhiều nhà xuất bản, ấn phẩm như sách, báo, tạp chí, nghiên cứu về đạo Phật ra đời. Một số nhà Nho học như Trần Trọng Kim, Thiều Chửu, Bùi Kỷ cũng góp sức vào cuộc phục hưng này[13].

Trong những năm 1.920,Việt Nam có nhiều đạo tràng thiền tại các chùa lớn do các hòa thượng hướng dẫn như [13]:

-         Tại miền Nam: Thiền sư Thích Từ Phong giảng dạy tại chùa Giác Hải; Thiền sư Khánh Hòa tại chùa Tiên Linh; Thiền sư Chí Thành tại chùa Phi Lai, chùa Giác Hoa; Thiền sư Huệ Quang tại chùa Long Hòa; Thiền sư Khánh Anh tại chùa Long An.

-         Tại miền Trung: Thiền sư Tuệ Pháp giảng dạy tại chùa Thiên Hưng; Thiền sư Thanh Thái chùa Từ Hiếu; Thiền sư Đắc Ân chùa Quốc Ân; Thiền sư Tâm Tịnh chùa Tây Thiên; Thiền sư Phước Huệ chùa Thập Tháp; Thiền sư Phổ Tuệ chùa Tĩnh Lâm.

-         Tại miền Bắc: Thiền sư Thanh Hanh giảng dạy tại chùa Vĩnh Nghiêm; chùa Bà Đá cũng là một đạo tràng lớn; Thiền sư Đỗ Văn Hỷ in ấn kinh sách rất nhiều.

 

Tóm lại, trong suốt thời kỳ Độc lập quân chủ phong kiến gần 1.000 năm, các thiền phái lần lượt xuất hiện đình đám và lớn mạnh bước đầu trong khoảng 400 năm, rồi sau đó suy thoái âm thầm kéo dài đến hai thế kỷ. Đến thế kỷ thứ 17, thiền phái Việt Nam mới bắt đầu hồi phục và trở nên lớn mạnh theo trào lưu tiến bộ của thế giới hiện đại. Trong giai đoạn này, một hiện tượng nổi bật đáng chú ý với hai thiền phái lớn được thành lập bởi các Sơ tổ Việt Nam mang bản sắc văn hóa dân tộc. Đó là thiền phái Trúc LâmLiễu Quán được đại chúng ngưỡng mộ và theo tu học đông đảo. Các dòng thiền khác như Tỳ-ni-đa-lưu-chi (574), Vô Ngôn Thông (820), Thảo Đường (1.069), Tào ĐộngLâm Tế (thế kỷ thứ 17) chỉ xuất hiện trên đất nước này do các Sơ tổ đến từ Trung Quốc. Trong giai đoạn này, hoạt động thiền giáo trong nước vẫn còn mang tinh túy thiền nước ngoài, chủ yếu với các lối truyền đạo cứng nhắc qua công án, thoại đầu, đốn ngộ, tâm ấn…, dù đã được bản địa hóa theo truyền thống Việt nhiều năm.

 
_____________________________________________________

 Tài liệu tham khảo:

  1. Lịch sử Phật Giáo Việt Nam:

(https://vi.wikipedia.org/wiki/L%E1%BB%8Bch_s%E1%BB%AD_Ph%E1%BA%ADt_gi%C3%A1o_Vi%E1%BB%87t_Nam).

  1. Nguyên Giác. 2020. The Way of Zen in Vietnam - Thiền Tông Việt Nam (sách song ngữ) - Thiền - Thư viện Hoa Sen (thuvienhoasen.org).
  2. Nguyễn Lang. 2014. Việt Nam Phật giáo Sử luận. Nxb Văn Học (langmai.org)).
  3. Sơ lược các dòng thiền Việt Nam: https://www.phattuvietnam.net/so-luoc-cac-dong-thien-viet-nam/
  4. Trần Tuấn Mẫn. 2017. Thiền Tông Việt Nam: https://thuvienhoasen.org/a28060/thien-tong-viet-nam
  5. Nguyễn Vĩnh Thượng. 2021. Tư tưởng thiền học của phái Trúc Lâm Yên Tử. Đạo Phật ngày nay (Chương 8): http://www.daophatngaynay.com/vn/phap-mon/thien-dinh/to-su/30707-chuong-8-tu-tuong-thien-hoc-cua-phai-truc-lam-yen-tu.html.
  6. Tuệ Thiện Hồ Hồng Phước. Niên biểu lịch sử Phật giáo Việt Nam: https://thuvienhoasen.org/images/file/3luRj7ut1QgQAPtr/nienbieulichsu-pgvn-2-.pdf.
  7. Thích Thanh Từ. 1991. Thiền tông Việt Nam cuối thế kỷ 20. Asian printing, Westminster, Nam Cali, 354 trang.
  8. Thiền tông tại Việt Nam: Thiền tông – Wikipedia tiếng Việt 
  9. Thích Trung Định. 2021. Đặc tính tư tưởng của thiền phái Lâm TếViệt Nam (https://tapchivanhoaphatgiao.com/luu-tru/8985).
  10. Tiểu sử thiền sư Liễu Quán (http://www.tosuthien.com/gioi-thieu/tieu-su-thien-su-lieu-quan).
  11. Thư viện Hoa sen: Thiền tông:

(https://thuvienhoasen.org/tudien?k=Thi%E1%BB%81n%20t%C3%B4ng)

  1. Chấn hưng Phật giáo – Wikipedia tiếng Việt:

https://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%E1%BA%A5n_h%C6%B0ng_Ph%E1%BA%ADt_gi%C3%A1o


 

Phụ đề: Biểu Đồ Các Tông Phái Phật Giáo Từ Ấn Độ Đến Việt Nam (thuvienhoasen.org)[24]

 

Các Thiền phái chính ở VN 6Các Thiền phái chính ở VN 7Các Thiền phái chính ở VN 8

 

__________________________________________________________

[1] Thiền Uyển Tập Anh (hay Thiền Uyển Tập Anh Ngữ Lục): một cuốn sách cổ của Phật giáo Việt Nam được biên tập vào khoảng trước năm 1134 cho đến đầu thế kỷ thứ mười ba thì hoàn tất, ghi lại các tông phái Thiền họcsự tích các vị Thiền sư nổi tiếng vào cuối thời Bắc thuộc cho đến thời Đinh, Lê, Lý, một số ít vị lớp sau còn sống đến đầu triều Trần. Đây là tác phẩm không những có giá trị về lịch sử Phật giáo mà còn là một tác phẩm truyện ký có giá trị về mặt văn học, triết họcvăn hóa dân gian. Cho đến nay chúng ta chỉ có bản trùng san in năm Vĩnh Thịnh thứ 11 (1715) thời Hậu Lê là bản in cổ nhất được hòa thượng Thích Như Tri và các môn đồ của Ngài khắc in ở chùa Tiên Sơn (Từ Sơn, Hà Bắc (Wiki)).

Tuy cuốn Thiền Uyển Tập Anh không ghi rõ tên soạn giả nhưng qua các tài liệu tham khảo chúng ta có thể xác định tác phẩm này đã được Ngài Thông Biên Thiền sư khởi thảo từ thời Lý đến Ngài Biên Tài, Thường Chiếu, Thần Nghi (Wiki).

 

[2]Tổ khai sơn của Thiền phái Yên Tử là Đại sư Hiện Quang (mất năm 1220), tu ở Chùa Lục Tổ do Đại sư Thiền Chiếu (Thiền phái Vô Ngôn Thôngtrụ trì, về sau tham học với các ngài Trí Không, Pháp Giới rồi khai sơn núi Yên Tử, thường được gọi là Trúc Lâm Đại Sa-môn được phong làm Quốc sư. Từ đó, truyền thống Trúc Lâm Yên Tử được hình thành.

Sau khi Đại sư Hiện Quang viên tịch, ngài Đạo Viên (thầy của vua Trần Thái Tông) nối tiếp truyền thống Trúc Lâm. Từ ngài Đại Đăng (thầy của vua Trần Thánh Tông), Tiêu Diêu (thầy của Tuệ Trung), Huệ Tuệ, Trúc Lâm (tức Trần Nhân Tông), Huyền QuangPháp Loa... cho đến Vô Phiền, tổng cộng là 23 vị, 5 thế hệ đầu của truyền thống Trúc Lâm Yên Tử , nổi bật về cung cách tu tập Thiền tông chỉ gồm vua Trần Thái Tông và Tuệ Trung Thượng Sĩ, nhưng hai vị này là cư sĩ và không cụ thể truyền pháp cho ai. Sự truyền thừa chỉ gần như là nối nghiệp trụ trì. Đến Trúc Lâm Đầu-đà Điều Ngự Trần Nhân Tông, vị vua anh minh, anh hùng, vị Thái thượng hoàng cao quý, bỏ ngai vàng để thành Sa-môn, Đại Thiền sư, lập Thiền am trên núi Yên Tửtrở thành vị Tổ của 17 Đại sư thuộc 17 thế hệ sau của truyền thống Trúc Lâm.”[16]

 

[3] Thiền Mặc chiếu do thiền sư Chính Giác ( tông Tào Động ) khởi sáng. Mặc là lặng lẽ chuyên tâm tọa thiền, chiếu là dùng huệ soi tâm tính linh bản lai thanh tịnh. Thiền Mặc chiếu là một phương pháp đơn giản, quá đơn giản, thực vậy, rằng sự đơn giản này trở thành sự khó khăn của nó. Trong cùng tận, nó là phương pháp của không-phương-pháp, trong đó thiền sinh buông bỏ hết mọi tìm kiếm, mọi ràng buộc gắn bó, mọi mong đợi, và chỉ việc sống Thiền một cách trực tiếp (Wiki).

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15 Tháng Tư 20244:58 CH(Xem: 234)
Trong tất cả mọi sắc thái mọi hoàn cảnh, mọi môi trường của đời sống qua thân, thọ, tâm, pháp đều có một cách thực hành giống nhau: thứ nhất tuệ tri như thật, thứ hai quán sát, khai triển cái tâm mình rộng ra là mình như vậy, người khác cũng như vậy và tất cả cái đang là đó đều sanh diệt, sanh diệt để không dính mắc với cái đang là và thứ ba là an trú chánh niệm như vậy, biết rõ như vậy là như vậy thì tâm mình dừng. Cho nên toàn thể ba bước đều sử dụng quán, định, tuệ hay là giới, định, tuệ cũng nằm trong con đường tu theo Kinh niệm xứ...
14 Tháng Tư 20249:09 CH(Xem: 59)
Đời người, như một dòng sông Thân như chiếc Lá, trên dòng nổi trôi Lá trôi mà chẳng tới nơi Như dòng định mênh cuốn lôi kiếp người ...
14 Tháng Tư 20248:51 CH(Xem: 71)
Đêm Hoa Đăng lung linh ánh nến Rực rỡ như vạn ánh Tinh Cầu Thiền Đường tợ không gian tròn bầu Chẳng khác nào đây là CUNG QUÃNG! ...
08 Tháng Tư 202411:22 SA(Xem: 114)
TÂM XUẤT GIA Tâm ta nay đã xuất gia Dù rằng thân xác ở nhà quanh năm Xuất gia ở tại cõi Tâm Chùa là phương tiện, diệt mầm đa ngôn ...
04 Tháng Tư 20248:45 SA(Xem: 216)
Mỗi năm, chỉ một ngày Cùng nhau hẹn về đây Là một ngày trọng đại Tự tại bước chân về
03 Tháng Tư 20248:12 CH(Xem: 88)
LUYỆN TÂM THANH BÌNH Tu hành thường lên núi cao Tránh cảnh phồn hoa rộn rịp Sợ rằng sẽ tạo nên dịp Tâm bị dính mắc cảnh trần ...
03 Tháng Tư 202412:24 CH(Xem: 140)
Tuệ Huy trình bày chủ đề: Về ý nghĩa của Yoniso manasikāra - NHƯ LÝ TÁC Ý ngày 24 tháng 2, 2024 tại Thiền Đường Tánh Không nam Cali
03 Tháng Tư 202412:11 CH(Xem: 111)
Tu không phải để "ĐƯỢC" mà là giúp ta "MẤT"..... Có chăng, cái "ĐƯỢC" duy nhất mà việc tu tập mang lại cho ta, đó là có được cái Tâm An - viên ngọc quý mà không bạc tiền nào có thể mua được.
27 Tháng Ba 202411:42 SA(Xem: 245)
Giơ tay bắt ngọn gió đùa. Gió đâu! Chỉ thấy ngón thưa tay trần. Rõ ràng gió thổi rần rần. Gió chẵng bắt được, tay trần vẫn không...
27 Tháng Ba 20247:38 SA(Xem: 235)
Lòng vui sướng vô cùng, sao lạ!. Tâm nhẹ như nắng Hạ pha Xuân. Tinh thần ta phấn chấn vô cùng. Có phải do những lời thăm hỏi?
26 Tháng Ba 20245:01 CH(Xem: 234)
Nhà tôi, với những góc vườn. Lặng im, nho nhỏ, dễ thương lạ thường. Góc đây, là góc NỤ THƯƠNG. Hoa đua nhau nở, như đương mĩm cười...
26 Tháng Ba 20242:55 CH(Xem: 211)
Muốn vượt qua được chướng ngại. Trước hết phải tập nhảy dài, nhảy cao! Đầu tiên tập nhảy qua hào, Qua mương, rảnh, không dùng sào chống, nghe!
19 Tháng Ba 202411:52 SA(Xem: 478)
Chuyển đổi tâm, đó là trí tuệ và đó là con đường của Thiền Quán. Tuy tạm nói là Thiền Quán nó cũng là Thiền Tuệ mà cũng là Định và cũng là Giới nữa, khi mình biết sai mình chuyển đổi tốt hơn thì đó là Giới rồi. Khi mình thiên vị, mình ghét ai thì tâm mình không có khách quan, mình chuyển đổi lại cái thấy khách quan thôi thì đó là Vipassana là thiền Tuệ. Khi mình khởi ra cái ý muốn nói hay muốn làm một việc gì không đúng, mình dừng lại liền thì cái đó là Định rồi...
19 Tháng Ba 202411:47 SA(Xem: 244)
Nhìn lên trống rỗng bầu trời. Cao xanh lồng lộng, không lời lặng thinh. Như qua biên giới tử sinh. Như đang thể nhập tâm linh tròn đầy.
19 Tháng Ba 20248:50 SA(Xem: 246)
Tuệ Huy trình bày chủ đề: NỘI DUNG chính của TỨ THÁNH ĐẾ: 3 CHUYỂN - 12 HÀNH TƯỚNG Powerpoint/SLIDES bài giảng - VIDEO - và bài kinh liên quan đến bài học
13 Tháng Ba 20241:02 CH(Xem: 272)
Đời người như chiếc lá. Theo phong ba lìa cành. Rơi vào lòng đất lạnh. Xong rồi, cuộc tử sinh...
06 Tháng Ba 20249:44 SA(Xem: 771)
Làm việc tốt và chỉ nhắm đến bào mòn cái Ta và đoạn trừ cái Tham. Và sau cùng, tu Phước mà thiếu tu Huệ, thiếu thực tập thiền định theo thánh giáo Như Lai, thì mãi mãi chìm đắm trong sanh tử.
05 Tháng Ba 20247:23 CH(Xem: 263)
Kiến thức này có ích lợi khi đọc vào tạng kinh Nikaya vì Đức Phật là bậc thầy về việc sử dụng các ẩn dụ để dạy cho chúng ta hiểu các khái niệm rất khó nắm bắt ví dụ như Samsara và Nibbana.
05 Tháng Ba 20245:45 CH(Xem: 266)
Tự động cải thiện ảnh của bạn bằng AI. (Trí thông minh nhân tạo) Đơn giản chỉ cần tải lên và trải nghiệm kết quả ngay lập tức
04 Tháng Ba 202411:09 SA(Xem: 279)
Tôi chỉ là người “Ở ĐỢ” Trong thân tạm bợ cõi đời Dẹp Tâm còn lắm nỗi trôi Mỗi giây, mỗi phút không ngơi
29 Tháng Hai 20241:39 CH(Xem: 304)
Tất cả đều do Nhân Duyên mà sanh khởi lên, Chúng sẽ mau chóng dễ dàng cũng do Nhân Duyên mà đoạn diệt. Tất cả phơi bày thật rõ ràng như thế như thế: Cái gì có bản chất sanh ra, cái đó có bản chất đoạn diệt! Nhưng Xả này tồn tại. Đây là pháp môn vô thượng căn tu tập.
26 Tháng Hai 20249:07 CH(Xem: 214)
Tâm phàm phu chứa đầy dấu HỎI ( ? ) Cùng dấu THAN ! Nhưng không dấu THÔI ( ./ ) Nên bao kiếp vẫn còn nổi trôi Trong “Lục Đạo”, luân hồi sinh tử.
18 Tháng Hai 20248:48 CH(Xem: 605)
Chùa đông người vang vọng tiếng cầu kinh Chợ Tết Hội Xuân, trăm hoa khoe sắc Bol-sa diễn hành, điểm tô muôn mặt Mừng Xuân đón Tết về, đượm thắm tình.
15 Tháng Hai 20244:58 CH(Xem: 522)
Thiền trong Xuân hay Xuân trong Thiền. Tết đến, Xuân về... Rồi lại đi! Còn lại trong ta những ảnh hình... Năm nào cũng chỉ sống như thế, Biết đến bao giờ thoát được ra?
13 Tháng Hai 20241:03 CH(Xem: 297)
PHÁT LÒNG TỪ BI Làm sao phát lòng TỪ BI ? Để Từ Bi dẫn ta đi hết đường Xin hãy luôn luôn, thường thường Nhìn thú bị giết! Máu đương chang hòa! Trước cảnh giết! Thú thét la! Từ bi sẽ phát, nếu mà xót thương
13 Tháng Hai 20241:03 CH(Xem: 258)
NGHINH XUÂN, Mai vàng khoe sắc trổ, ĐÓN TẾT, rực rỡ đóa Hồng Đào, Nhân gian pháo nổ đón chào, THIỀN VIỆN nghi ngút ngạt ngào khói hương.
08 Tháng Hai 20241:13 CH(Xem: 382)
Như một truyền thống: Kính mời Chư Tôn Thiền Đức,Thân mời quý Cô Bác, quý anh chị Thiền Sinh cùng Gia Đình và tất cả Thân Hữu cùng về THIỀN ĐƯỜNG TÁNH KHÔNG 13071 Brookhurst St., Suite 197 - Garden Grove, CA 92843 10 giờ sáng ngày chủ nhật mùng 2 TẾT (nhằm 11 tháng 2, 2024) chúng ta cùng nhau LỄ PHẬT, chúng ta cùng nhau MỪNG XUÂN MỚI. Hoặc quý vị có thể tham dự trên ZOOM theo LINK
07 Tháng Hai 20249:56 SA(Xem: 486)
"Ý Như Vạn Sự" Là tác Ý sâu để nhận ra cái tánh Như của Vạn Sự. Là cho lối sống tùy duyên thuận pháp, thõng tay vào chợ giữa giòng đời, Là cho phép vạn sự tự vận hành theo nguyên lý của chính nó, Là vô ngã vì không có chủ ý mong muốn vạn sự theo ý của chính mình.
07 Tháng Hai 20249:19 SA(Xem: 285)
Có bạn, tôi đi giửa cuộc đời vững chải, thong dong, không bị gió đời đánh gục. Có bạn, tôi thêm sức mạnh đối diện cùng bệnh khổ. Có bạn vào giờ phút cuối đời, khi không có ai ngay cả những người tôi thương yêu nhất, không còn gì kể cả những gì tôi quý giá nhất, chỉ còn lại bạn cùng tôi đi qua cửa tử. Sẽ không có ai hết. Trừ bạn, bạn hiền của tôi.
06 Tháng Hai 20249:53 SA(Xem: 339)
Mùa xuân là khởi đầu, là hy vọng. Lời chúc đầu xuân đến với bạn vào những thời khắc chuyển giao một năm mới đều là những lời tốt đẹp. Chúc thành công, may mắn. Chúc mọi sự an lành. Chúc ước mơ thành hiện thực. Chúc phú quý đại lợi. Chúc an khang thịnh vượng. Và dễ thương nhất là lời chúc " Vạn sự như ý ".
05 Tháng Hai 202410:51 SA(Xem: 220)
Xuân về mến chúc bạn hiền Sống đời An Lạc -như nhiên hài hòa Tâm hồn thanh thản thong dong Thương đời ,mến đạo -chung lòng dựng xây
05 Tháng Hai 202410:47 SA(Xem: 214)
Xuân về trong chốn Thiền môn Thiền sinh khắp chốn đồng bôn tập về Cùng nâng ly rượu Bồ Đề Cùng nhau tất cả hướng về Ân Sư
30 Tháng Giêng 20246:36 CH(Xem: 319)
Tết nay xin chúc bình an Xuân về đem lại muôn ngàn niềm vui Mọi người chia xẻ ngọt bùi Hài hòa cuộc sống, lau chùi tâm linh.
25 Tháng Giêng 20242:24 CH(Xem: 471)
Đừng kéo lê cuộc đời mình với những tính toán, âu lo. Hãy tự cho mình một cơ hội có một không hai trong đời: Thiền, bạn sẽ không bao giờ nuối tiếc, vì chắc chắn bạn sẽ có được cái Tâm An - viên ngọc quý mà không bạc tiền nào có thể mua được…
22 Tháng Giêng 202412:18 CH(Xem: 267)
Mỗi ngày “ bỏ ống”, vài mươi phút Đứng đi tích trữ, vài mươi giây Tâm ta sẽ chứa đầy AN TỊNH Cứ vậy, ta sẽ được bạc nghìn !
22 Tháng Giêng 202412:11 CH(Xem: 1379)
Sát sinh hại vật làm vui thú Nghiệp duyên quả báo, sẽ không lường !
15 Tháng Giêng 20248:50 SA(Xem: 786)
Mừng Xuân đón Tết Giáp Thìn Niềm vui đầy ắp trong tim mọi người Trẻ thơ luôn nở nụ cười Hương Xuân tỏa khắp đất trời tĩnh im
14 Tháng Giêng 20249:17 SA(Xem: 314)
Người từ cát bụi tới đây Về đâu ai biết ? mai này hóa thân!
09 Tháng Giêng 20247:20 CH(Xem: 444)
Chữ định là samādhi, được định nghĩa là citta ekkagatta. Citta này có nghĩa là tâm. Ekkagatta này tách ra làm đôi có chữ ekka nghĩa là “một” còn gatta thì giống như động từ “to go” trong tiếng Anh có nghĩa là đi tới. Như vậy ekkagatta nghĩa là cái tâm của chúng ta nó đi tới cái trạng thái chỉ có “một”. Tuy nhiên, cái yếu tố một của citta ekkagatta này chỉ là yếu tố cần thôi chứ chưa có phải đủ của định trong Phật giáo.
08 Tháng Giêng 20244:39 CH(Xem: 363)
Ni Sư về Thiền Viện Chân Như Cho chúng con chiêu thức tuyệt vời Nhắm mắt nhìn, tâm thấy trống rỗng Mỡ mắt nhìn ra thấy rỗng không
07 Tháng Giêng 20248:19 SA(Xem: 311)
Cung kính lạy Ngài HUỆ NĂNG Xin chứng minh, cho Thiền Đăng con ngời!!! Kính đê đầu bái lạy Người Kính xin Ngài độ suốt đời Tánh Không
01 Tháng Giêng 202412:28 CH(Xem: 328)
Mùa Xuân này, buồn lắm người ơi Tổ Đình tôi thiếu vắng một Người Một vị Thầy! muôn đời khả kính Thầy tôi đó ! nay có còn đâu !
01 Tháng Giêng 202411:20 SA(Xem: 545)
CHÚC cho mọi người vui đón Xuân MỪNG năm mới đến dịp cuối tuần NĂM nay vui Tết, xin kính chúc MỚI đẹp muôn điều đến với Xuân
26 Tháng Mười Hai 202310:36 SA(Xem: 435)
Có gì đâu vướng mắc Ta bà Nhớ lời thầy dạy-sáng ngời trong tâm "Qua dòng nước, bàn chân không dính nước" "Sống trong đời - Định huệ chẳng rời ta"
26 Tháng Mười Hai 202310:31 SA(Xem: 762)
ĐỜI KHỔ, chuyện khủng kinh sao tả Thân VÔ THƯỜNG kể cả vạn sinh Chỉ có CĂN NHÀ TÂM LINH Tự ta tu học, CHÍNH MÌNH ngộ ra!
24 Tháng Mười Hai 20232:18 CH(Xem: 297)
“ Dòng xúc cảm viết đầy trang giấy Ngồi nhớ Thầy, từ bấy đến nay Giữa lòng Tổ Đình đong đầy Cuộc đời pháp lữ của Thầy độ nhân “
20 Tháng Mười Hai 20237:49 SA(Xem: 366)
Kho tàng là Phật tánh trong mỗi chúng sanh, là khả năng giác ngộ. Khi thật sự giác ngộ rồi, thì không ai còn chạy đi tìm cầu hạnh phúc ở bên ngoài. Kho tàng là Tánh Giác trong mỗi con người, là khả năng thành Phật. Mà một khi đã thành Phật thì vượt thoát mọi đau khổ, buồn vui.
18 Tháng Mười Hai 202312:08 CH(Xem: 435)
Tình nghĩa hai Thầy trò đã vượt Qua lằn ranh giới của đời thường Mới khiến những lời thơ của con Bật lên thành tiếng khóc thương Thầy !!!
13 Tháng Mười Hai 202310:32 SA(Xem: 718)
Sau khi chứng ngộ Đức Phật đã đi bộ đến khu Vườn Nai để giảng cho năm anh em tôn giả Kiều Trần Như những bài pháp đầu tiên, trong đó có bài kinh Vô Ngã Tướng. Trong bài kinh này, Đức Phật phân tích các thành phần ngũ uẩn của một người gồm có sắc, thọ, tưởng, hành, thức và chứng minh rằng chúng đều vô thường, khổ và do đó không thích hợp để đồng nhất với một "ngã" (attan). Trong khi nghe bài kinh này, tâm của nhóm năm vị được giải thoát khỏi các lậu hoặc, không còn chấp thủ.
11 Tháng Mười Hai 20238:17 SA(Xem: 326)
“Ơn Thầy báo mộng năm xưa Thuốc trong mình đó, sao mua ngoài nầy”
10 Tháng Mười Hai 20234:48 CH(Xem: 675)
Một pháp Thiền cho thời hiện đại Có những điểm đặc sắc nói trên, nhưng thực ra dòng Thiền Tánh Không chính là sự khai triển hiện đại của truyền thống Thiền nguyên thủy của Phật giáo. Thiền sinh tu tập pháp “không lời” bằng những cách quen thuộc như “không nói thầm trong não”, “không định danh đối tượng”, “không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ tướng riêng”
06 Tháng Mười Hai 20232:33 CH(Xem: 528)
Thầy mình, một vị Thiền Sư Tánh Không hiển lộ, tướng như mây trời. Kinh ! Người không nói một lời Mà như đã nói vạn lời Tâm Kinh.
06 Tháng Mười Hai 20239:49 SA(Xem: 400)
Lần đầu tiên con được duyên lành về thăm xứ Phật. Được đặt chân tới Ấn Độ nơi mà con hằng ao ước một lần trong đời con có thể viếng thăm.
05 Tháng Mười Hai 202312:51 CH(Xem: 1063)
Ngày Lễ Tạ Ơn là ngày sum họp gia đình và cũng là ngày bắt đầu mùa lễ hội rộn ràng kết thúc năm cũ sắp qua và chào đón năm mới sắp đến ở Hoa Kỳ.
05 Tháng Mười Hai 202311:46 SA(Xem: 1060)
Theo lịch sinh hoạt của Đạo tràng Nam Cali thì hôm nay là một ngày nhập thất chuyên tu tại Tổ đình Tánh Không. Tuy nhiên ngày hôm nay đặc biệt có thêm buổi lễ quy y cho hai bạn đồng tu là Lê Văn Hoàng và Trương Thùy Thanh Trúc. Hai bạn này là những thành viên mới của Đạo tràng Nam Cali.
03 Tháng Mười Hai 20238:28 SA(Xem: 381)
Tuy chưa một lần hội ngộ Tiếng vang Thầy lồng lộng giữa hư không Một ngọn lau gầy còm cỏi Ngã xuống, chấn động cả thiên thu
28 Tháng Mười Một 20239:53 SA(Xem: 411)
Nín thinh, không lộ nét đau. Miệng điểm nụ cười ngọt ngào lắm thay! Một câu nói, nay mới hay: “Thân đau, Tâm chẳng đau” đây chính là!
27 Tháng Mười Một 202310:44 CH(Xem: 647)
Đại duyên đã đến với NHƯ VÂN. Ly gia cắt ái, giải thoát cần. Tâm Quan tỉnh ngộ, đời biển khổ. Tánh Không cội phúc, trọn Tứ Ân.
27 Tháng Mười Một 202312:38 CH(Xem: 551)
Hành trình này rất ích lợi cho sư tu tập vì cảm thấy gần gũi Đức Phật hơn vì Ngài cũng là một người bình thường tuy là Hoàng tử mà đã bỏ hết để trải nghiệm nhiều cách tu trước khi Đại giác ngộ.
27 Tháng Mười Một 202312:31 CH(Xem: 598)
Chuyến đi hành hương nầy 50 người mà con chưa quen 46 người....và con thật vui được gặp những bạn mới rất dễ thương, thanh tú, dễ chịu làm cho cuộc hành trình rất vui vẻ. Con xin cảm ơn Cô đã không ngại tổ chức chuyến đi nầy để mở mắt chúng con trên con đường tu
27 Tháng Mười Một 202312:21 CH(Xem: 376)
Những ngày đầu đến đây, trên đường mắt thấy tai nghe những cảnh đời khốn khó, ngạc nhiên là tiếng niệm Phật và chuông cũng phát ra từ đây! Con thầm nghĩ, nếu mình đến đây để cầu xin, van vái thì mình và họ chẳng khác gì nhau đâu, có khác là khác về hình tướng bên ngoài mà thôi.
27 Tháng Mười Một 202312:13 CH(Xem: 411)
Mười hai ngày hành hương đã qua đi nhanh chóng. Bây giờ, ngồi ở nhà, con có cảm tưởng như đã trải qua một giấc mơ. Cũng may nhờ những hình ảnh trong điện thoại, nên biết chắc mình không mơ. Giấc mơ hành hương đất Phật đã đủ duyên nên thành tựu.
27 Tháng Mười Một 202312:06 CH(Xem: 442)
Từng thánh tích con đi qua gợi nhớ lại cuộc đời người cha của con. Người đã từ bỏ tất cả, chấp nhận gian khổ để tự mình tìm kiếm con đường giải thoát. Ngài giác ngộ, giáo hóa chúng sinh.
20 Tháng Mười Một 20239:11 SA(Xem: 438)
Hôm nay Giổ Thầy, nhớ lại Chẳng thấy bụi phấn của ai bay bay Mắt như “ ươn ướt” “ cay cay”! Tâm ta đang đong tràn đầy nhung nhớ !!!
20 Tháng Mười Một 20238:29 SA(Xem: 545)
OHBM: là chữ viết tắt của Organization for Human Brain Mapping. Năm nay là năm thứ 16, mỗi năm họ tổ chức đại hội tại một quốc gia khác nhau. Số người tham dự rất đông, khoảng trên 3000 người đủ mặt từ các nước, đa số là người trẻ, trong đó đăc biệt chỉ có một thầy tu.
12 Tháng Mười Một 202310:41 SA(Xem: 733)
CON LÀ LẠC - TỊNH Kính dâng TẤM LÒNG đệ tử nhớ ơn THẦY mình !
05 Tháng Mười Một 20238:10 SA(Xem: 434)
Hôm nay đây, được nhân duyên đải Gặp vị Thầy soi sáng Tâm trần Thầy còn chỉ biết bao nhiêu lần Đường nào đi, và nơi nào đến !
02 Tháng Mười Một 20239:55 SA(Xem: 501)
chỉ trong 9 ngày qua đã có 17,823 lượt xem, 248 like và rất nhiều comment của huynh đệ khắp nơi thương quý Thầy
01 Tháng Mười Một 20234:23 CH(Xem: 763)
Lời ngõ: Trong kỳ kết tập kinh điển lần thứ ba khoảng 236 năm sau khi Phật nhập diệt, Ngài Mục Kiền Liên Tu Đế (Moggaputta Tissa) đã định nghĩa Định là Nhất tâm (citta ekkagatta). Định nghĩa này khiến cho việc thực hành Thiền định về sau bị sai lệch và nhầm lẫn với các loại thiền ngoại đạo. Bài viết này được phiên tả lại từ bài giảng của Tuệ Huy trong buổi sinh hoạt Đạo tràng của Nam Cali.
01 Tháng Mười Một 20233:50 CH(Xem: 419)
Trâu tôi, là Trâu Điên Không hiền, mà quá dữ Nhưng cũng phải chịu thua Theo cách chăn trâu này!!!
30 Tháng Mười 20238:18 SA(Xem: 649)
Người thực hành tứ niệm xứ là người: 1. Đang thực hành con đường độc nhất đưa tới sự thanh tịnh, trí tuệ, và giải thoát cho chính mình. 2. Là người biết kiểm soát những thứ có thể kiểm soát (tức là thân, thọ, tâm pháp) và biết không cần kiểm soát những thứ không thể kiểm soát (tức là sắc thanh hương vị xúc pháp)
26 Tháng Mười 20237:10 CH(Xem: 726)
Hôm nay thắp nén hương Tâm Khóc người tiểu đệ, lòng thương miên trường Nay đệ đã thoát vô thường Nguyện hương linh sớm về nương Phật Đài
24 Tháng Mười 202312:19 CH(Xem: 947)
Thu về lá rụng Cây rồi nghỉ đông Đời người mùa thu Biết đổ về đâu.
23 Tháng Mười 20238:55 SA(Xem: 496)
Ý như là một vị Đại Tướng Đang điều quân, gữa chốn sa trường NÓI, chỉ là những tên lính thường Luôn thi hành theo những mệnh lệnh
22 Tháng Mười 20235:49 CH(Xem: 513)
Nhân duyên lành nhiều đời kiếp của Huynh Hiện tại Tánh Không tu học nhiệt tình Chánh niệm, Tánh Giác Huynh nhận thức Biết Đạo tràng Ca-li nguyện tiễn Sư Huynh.
17 Tháng Mười 20237:28 CH(Xem: 522)
Ngày nay, chúng ta được nghe Chánh pháp, được diện kiến các Chánh tăng ni, được thực hành cùng các bạn đồng tu, được sống hòa hợp trong Đạo tràng để cùng nhau tinh tấn. Chúng ta phải biết trân quí những điều này, phải cố gắng tu tập, đừng để uổng phí mỗi phút giây, bởi vì chúng ta đang có được những điều hạnh phúc nhất.
17 Tháng Mười 202311:25 SA(Xem: 715)
NHÌN sóng vỗ ì ầm bờ cát. Tỏa bọt bèo chiều nhạt nắng xa. Ánh dương như tiếc chiều tà. Biển khơi gió lộng bài ca vô thường...
17 Tháng Mười 202311:18 SA(Xem: 429)
Đường trường, chạy bộ, một cuộc đưa. Trên lối Tâm Linh, dưới mái chùa. Thiền sinh, là người đua, chạy bộ. Quyết tâm, bền chí, một cuộc đua...
17 Tháng Mười 202311:17 SA(Xem: 439)
Không đâu linh hiển bằng đây. Bên trong Não Bộ, thân này của ta. Đó là tấm thân ta bà. Cũng là cát bụi, cũng là thịt xương!
11 Tháng Mười 202310:21 SA(Xem: 850)
Chú ý trống rỗng là kỹ thuật thuộc Thiền Định và Thiền Huệ. Kỹ thuật này nghe lạ tai trong Thiền, nhưng có nhiều tác dụng rất sâu sắc. Cơ bản là nó chận đứng nghiệp xấu, không huân tập hạnh xấu, sống phù hợp theo giáo huấn của Phật, và làm cho tâm cá nhân thoát ra khỏi những điều kiện mà cá nhân đã bị điều kiện hóa trước đây.
09 Tháng Mười 20232:18 CH(Xem: 562)
Lão HUỲNH nay đã già rồi. Bỗng nhiên nhớ lại một thời Huy Lynh*. Lão nhìn vào kính tử sinh. Thấy Không Lạc bước đăng trình về quê...
04 Tháng Mười 20236:20 CH(Xem: 609)
Thế là từ nay Tôi đã là một người con của Phật và tôi có pháp danh mới là Tâm Minh. Tôi sẽ cố gắng nguyện Quy Y Tam Bảo, và nguyện thọ trì ngũ giới mà trong buổi lễ Quy Y Ni Sư đã ban cho.
03 Tháng Mười 202310:25 SA(Xem: 621)
Tử Thần, hiện đang ở đâu? Phải chăng hiện đang trong đầu chúng ta! Dưới nhiều hình thức, như là : GIẬN HỜN, TỨC BỰC..... cùng là TỴ GANH....
27 Tháng Chín 202310:32 SA(Xem: 1123)
Nhất tâm nghĩa là chỉ có một tâm. Nhưng thế nào là nhất tâm đúng với ý nghĩa định trong Thiền Phật giáo? Đó là sự hiện hữu của tánh giác. Vì tánh giác là biểu tượng của tâm không hai: không chủ thể và không khách thể.
24 Tháng Chín 202310:31 SA(Xem: 530)
Sau đêm ấy, trong mơ. Một giấc mơ kỳ diệu!. Như ẩn dụ, Thầy biểu: Tự bào chế linh đơn!
21 Tháng Chín 20239:50 SA(Xem: 904)
Thiền là lối sống tỉnh thức với cái biết trong sạch và sự yên tĩnh bên trong. Với cái biết trong sạch đó, tâm được thoát khỏi sự tham đắm khổ não, và trải nghiệm một trạng thái bình an thật sự. Trong thiền, sự thực hành buông bỏ diễn ra trong nhiều giai đoạn, từng bước, từng bước một. Mục tiêu của thiền là trở về với sự tĩnh lặng vốn có, với cái biết trong sáng của chân tâm.
12 Tháng Chín 202311:26 SA(Xem: 859)
Niệm Phật như nước Cam Lồ. Rửa sạch tất cả bợn dơ tâm mình. Niêm Phật, phải niệm thật tình. Niệm mà không nghĩ cho mình phước thêm...
12 Tháng Chín 202311:22 SA(Xem: 702)
Làm sao biết đuợc ta tu đúng. Để tiếp tục những bước ung dung. Để quyết tâm, đi cho đến cùng. Trên con đường tâm linh đã chọn?
04 Tháng Chín 20239:53 SA(Xem: 641)
Hơi thở là mạng sống, là Pháp môn, là nền tảng trí tuệ, là niềm yêu thích khi nhớ về.
03 Tháng Chín 202312:35 CH(Xem: 608)
Kỳ diệu thay, đèn đêm không thắp. Mà rực rỡ như ánh trăng rằm. Khắp Cỗ Thành, yên tịnh, lặng câm. Sự tĩnh lặng, làm sao tả được!
30 Tháng Tám 20239:50 SA(Xem: 835)
Còn hơi thở thì còn tu tập; Còn tu tập, thì khả năng phát huy trí tuệ, và cơ hội giải thoát còn. Hãy thở và biết mình đang thở.
26 Tháng Tám 20232:28 CH(Xem: 746)
Tôi ơi! sao không hạ thủ công phu. Để sau sát na, sẽ được huy hoàng. Mà cứ tà tà, để le lói mãi. Rồi sẽ tiếc rẽ cho một đời tu!
26 Tháng Tám 20232:23 CH(Xem: 577)
Chất xúc tác, như là diêm quẹt. Đến duyên rồi, lửa xẹt bừng tâm. Tận đáy, biển, sông, hố, hố, đầm... Cũng thấy rõ, đâu là viên ngọc!
23 Tháng Tám 20239:27 SA(Xem: 939)
Có lẽ ai trong chúng ta cũng đã một lần tự hỏi "Có con đường nào dẫn ta đến bình an, hạnh phúc?", cũng đã từng loay hoay tìm cho mình một con đường tâm linh. Ở tuổi chiều tà bóng xế, khi cơm ăn áo mặc không còn là nỗi lo lớn lao nữa, thì con người ta có khuynh hướng tìm cho mình một con đường "hướng thượng".
69,256