Tôi Học Thiền : SỰ HẤP DẪN CỦA THIỀN
Vào năm 1962, khi tôi mới vào học Trung học, ba tôi đi học Thiền. Ông không bao giờ dắt tôi theo. Ông không muốn tôi đi theo vì với ông Thiền là chuyện của người lớn. Tôi muốn đi theo nhưng lại sợ ông Thiền sư phái Zen Nhật Bản đánh đòn. Ba tôi dọa nếu ngồi không đàng hoàng hay ngủ gục thì ông Thiền Sư mặc áo tràng đen nhè nhẹ tới sau lưng, thình lình dùng cây thiết bảng dài đập ba bảng mạnh vào vai.
Dù sợ tôi vẫn tò mò muốn thử. Lần đầu tôi thử ngồi Thiền là 55 năm trước. Theo tập san Ánh Đạo của Hội Thông Thiên Học (Theosophical Society, nơi ông học lớp Thiền của ba tôi mua dài hạn. Đây là một tập san khô khan nói về nhiều đạo : Phật, Lão, Yoga Ấn giáo, Thiên Chúa... và các phương pháp thực hành để tiến trên con đường tu tập. Tại sao tôi lại đọc được loại báo này trong khi trẻ con cỡ tuổi tôi hồi đó chỉ biết đọc truyện bằng tranh?
Đó là vì tôi khao khát có sức khoẻ tốt để mẹ khỏi khổ vì lo lắng. Ngay từ hồi nhỏ, tôi hay bệnh vì yếu ớt thể chất. Mẹ tôi nghĩ là do bà có bệnh lúc cho tôi bú. Ý nghĩ này biến thành nỗi khổ khi bà biết bà bị lao và lây tôi. Cũng may, sau một thời gian điều trị mẹ và tôi hết bệnh. Nhưng bà vẫn mang cái dằn vặt đó và nơm nớp lo sợ tôi sẽ lại bị bệnh. Thật vậy ngay sau đó tôi mắc bệnh viêm gan da vàng, liệt giường hai tuần, phải nghỉ học một tháng. Khi tôi khỏi, dù nhà không khá, mẹ cũng phải thuê một chị ở hàng ngày đưa tôi ra vườn ông Thượng cách nhà tôi một tiếng đi bộ để tôi được khoẻ cũng vì muốn có sức khoẻ tốt mà tôi mê tập võ và xem truyện kiếm hiệp như Thiếu Lâm Trường Hận, Cam Tử Long ...trước 1961, và vào những năm 60, các truyện chưởng của Kim Dung : Anh Hùng Xạ Điêu, Võ Lâm Ngủ Bá, Lục Mạch Thần Kiếm...Trong các truyện này, nhân vật chính (Chí Thiện sư, Cam Tử Long, Quách Tỉnh, Vương Trùng Dương) đều là những người có sức khoẻ hơn người và cứu- giúp /- độ được rất nhiều người, nhờ có võ công thâm hậu tức là phải luyện tĩnh tọa theo đạo Lão (như Trương Vô Kỵ và Vương Trùng Dương) hay luyện Thiền như các nhà sư Thiếu Lâm. Thiền Phật giáo của các nhà sư quá khó với tôi, trong khi tĩnh tọa luyện công theo đạo Lão cũng giống ngồi Thiền nhưng tôi cho là dễ hơn. Bởi vì thuật ngữ luyện công đã quen thuộc với tôi qua truyện chưởng, với những huyệt Đan Điền, Mệnh Môn, những Nhâm - Đốc Mạch. Cho nên tôi bắt chước ba tập ngồi thiền kiết già lưng thẳng, nhưng lại phình bụng thở vô Đan Điền rồi tưởng tượng dẫn khí đi theo vòng Tiểu Chu Thiên như trong Thiền đạo Lão. Lúc đó xương còn dẻo nên ngồi kiết già rất dễ, và các cách thở, nén cũng làm được, nhưng trong vài tháng võ công đâu không thấy tới... chỉ thấy bụng như bự ra và... tê chân.
Rồi tôi xoay qua học yoga (để được như các nhà sư Thiên Trúc trong truyện) và Thiếu Lâm quyền, cũng qua tờ Ánh Đạo. Và cũng bỏ cuộc sau vài tháng tập thử vì không thấy kết quả như mong muốn... sau vài tuần Rồi tôi ngưng tìm hiểu về Thiền vì bận nhiều chuyện: thể thao, học hành thi cử và sau đó được đi du học nước ngoài. Vả lại lúc đó ba tôi cũng đã ngừng Thiền để đi chùa nghe Kinh lạy Phật cùng mẹ tôi.
1. Tuổi thanh niên : thiền bớt hấp dẫn
Trong thập niên 70 – 80, dù bận bịu làm việc mưu sinh cho gia đình nhưng tôi cũng luôn dành một phần thời giờ cho thể thao để có sức... chạy đua với viêc làm. Cái khát khao sức khoẻ cũng còn trong tôi nhưng giảm so với trước vì đang ở tuổi dồi dào sinh lực. Thay vào đó là cái ý tranh đấu với đồng nghiệp để ngoi lên trong thang bậc xã hội. Nên tôi chơi bóng chuyền, tập Karate... Những được thua trong các sinh hoạt đời gây vui buồn mà cũng tạo nên các thói tham danh, sân giận, si mê.
Sang thập niên 90, đến cùng với tuổi là bệnh tật cũng như nhiều cái khổ do thăng trầm cuộc đời ngoài ý muốn. Như các người làm việc bằng trí óc khác, các bệnh tôi có đa số đều là bệnh loại tâm thể (psycho-somatic disorders): mệt mỏi, mất ngủ do căng thẳng, viêm đường tiêu hóa... Tôi biết là cách trị bệnh tâm thể của Tây phương không trị được tận gốc. Theo chính các bác sĩ bên này, muốn trị tận gốc phải "trị" bằng cách của Đông phương dựa trên sự thư giãn, như Thái Cực Quyền hay Thiền.
Sẵn dịp có vợ anh bạn người Hoa dạy thể dục ở Thượng Hải sang, chúng tôi được học Thái Cực Quyền 24 thức với chị. Dù tên các thế giống như tên các thế võ Tàu như "Bạch hạc lượng xí ", "Thủ huy tỳ bà", "Lãm tước vĩ "..., đây không phải là môn võ Trương Tam Phong sáng tạo như Kim Dung mô tả, mà là một môn thể dục dưỡng sinh do nhà nước Trung Hoa tổng hợp thành phương pháp tăng cường sức khỏe thân và tâm. Nhờ 24 thế múa nhẹ nhàng trong thư giãn, chúng tôi cảm được một chút lợi ích của chúng: tâm thanh thản hơn, thân nghe như dẻo dai hơn. Nhưng khi người thầy dạy về nước thì tất cả đều ngưng có lẽ vì thiếu quyết tâm và kiên nhẫn ?
2. Thiền hấp dẫn lại vào tuổi xế chiều
Nhu cầu về tâm linh gắn liền với loài người từ thời xa xưa, nhưng có lẽ vì cuộc sống che lấp, đến khi gặp khổ đau, có vấn đề khó giải quyết trong cuộc sống người ta mới hướng về tâm linh. Khi gặp vấn đề trong đời sống, ký ức thời trẻ ở Việt Nam đưa tôi quay về với Phật Giáo. Lúc đó phong trào theo phương pháp Thiền chánh niệm của Phật giáo nổi lên, song song với thiền Tây Tạng. Thiền sư Matthieu Ricard, một nhà nghiên cứu về sinh học Pháp đã bỏ nghề bỏ sự nghiệp và danh vọng qua Nepal, tu trên núi, rồi hạ san đem thiền Tây Tạng vào các nước phương Tây, cũng như đưa khoa học tân tiến vào việc nghiên cứu ảnh hưởng của thiền Tây Tạng lên não bộ.
Trong nhiều năm, tôi tìm nghe giảng pháp và cách Thiền của một số Thiền Sư Phật giáo danh tiếng ở trời Tây, và muốn học để tiến bộ, nhưng tiếc là không có duyên để gặp sớm một người Thầy dạy kỹ thuật thiền hợp với mình. Thời may tôi liên tiếp được học nhiều khóa về Phật pháp và thiền đạo tràng của dòng thiền Tánh Không ở vùng Stuttgart và Paris tổ chức vào những năm 2010 – 2011. Đây chính là cái duyên lớn của tôi, vì đâu phải mình tìm là được đâu! Mà được là được gì? Trước hết là hiểu tổng quát về cái khổ, nguyên nhân sinh ra và cách diệt nó theo Phật chứng quả, hiểu biết đủ các chân lý đó để có lòng tin và ý chí giữ giới và hành thiền. Thiền chỉ là phương tiện giúp mình thực hành chánh niệm vững chắc. Tự nó không phải mục đích tuy nó là một cột trụ trong ba cái "Giới- Định- Tuệ" giúp ta giải thoát mọi phiền não khổ đau. Tôi cho là việc học và hành thiền Phật đã chứng nghiệm dưới cái nhìn khoa học hiện đại song song với Phật pháp trong đạo tràng Tánh Không là cái duyên lớn vì nếu học từng cái một thì không thấy mối quan hệ kết hợp với nhau nên sẽ quên nhanh chóng đi. Giáo trình soạn kỹ lưởng của Thầy Thiền Chủ cho thấy được mối quan hệ liên kết từ Tiến Trình Tu Chứng Của Đức Phật qua các từng Định để thành Đạo với các kỹ thuật thực hành thích hợp dễ sinh ra hạt giống “thiền" tốt. Phật pháp tuy khó lãnh hội trong một thời gian ngắn, nhưng môi trường yên tỉnh hài hoà của các đạo tràng Tánh Không là chất xúc tác cho hạt giống thiền nẩy mầm lớn mạnh trong khóa tu, đưa đến kinh nghiệm khích lệ, hổ trợ cho sự hành thiền với quan niệm mới.
Phân tách kinh nghiệm hành thiền Tánh Không - Trải nghiệm trong tiến trình thực hành
Kết quả của sự hành thiền tùy thuộc rất nhiều vào cá nhân người thiền, do ảnh hưởng của quá khứ, quan niệm sống, thói quen. Nếu nhiều người có duyên cùng tu học và cùng tập thiền, kết quả có thể rất khác nhau. Nghề để sống của tôi là nghiên cứu và dạy học. Trong 42 năm, việc làm của tôi là thí nghiệm, rồi suy tìm liên hệ giữa các hiện tượng dựa theo kết quả thí nghiệm. Điểm tốt của nghề này là đào tạo con người ngay thẳng (không che dấu, sửa đổi, báo cáo láo kết quả...), và khi suy luận phải làm nghiêm chỉnh rốt ráo. Nhưng nó huân tập thói quen suy nghĩ, phân biệt, so sánh cái đang thấy với kết quả công bố từ lúc thế giới có khoa học, và sau khi tìm ra liên hệ giữa nhân và quả lại phải dự đoán tương lai từ đó. Tóm lại, ngày ngày người nghiên cứu soi móc, tìm hiểu vấn đề trong quá khứ, suy luận ráo riết trong hiện tại, để phóng về tương lai càng xa càng tốt. Chúng đã đem bệnh tâm thể đến tôi, cũng như khổ đau tinh thần, chẳng hạn như khi có nhà nghiên cứu khác chỉ ra mình sai, hay khi họ nhanh tay viết bài trình trước mình trên cùng vấn đề, những sự kiện khiến mình mất danh lẫn cơ hội thăng tiến.
Những tai hại của việc đầu óc luôn suy nghĩ qua ý căn, ý thức và trí năng
Sau khi học khóa căn bản, tôi hiểu là việc dùng thường xuyên ý căn, ý thức và trí năng suy luận rất có hại vì nó vì dẫn đến các bệnh tật có gốc ở tâm (psychosomatic diseases) do sự mất thăng bằng trong hoạt động của não và hệ thần kinh tự quản. Những thói quen suy nghĩ này được công việc huân tập đã ngự trị trên óc não tôi mấy mươi năm nay nên rất khó thay đổi. Ngay khi đi chơi du lịch, đáng lẽ đầu óc tôi phải thảnh thơi nhưng nó lúc nào cũng hoạt động, cũng lo lắng, tìm hiểu sắp đăt, thậm chí chuẩn bị cho chuyến du lịch sau. Học khóa căn bản tôi mới biết đó là sự đối thoại thầm trong đầu khiến trí óc tôi căng thẳng, mệt mỏi, mặt mày cau có, hay giận dữ buồn phiền.
Việc dừng tâm lại để hành thiền là chuyện rất khó khăn với tôi. Chẳng hạn trước kia, khi học cách thở thường được dạy trong các lớp Thiền, như đếm hơi thở hay chú ý theo dõi hơi thở vào - ra: "Thở vào, tôi biết tôi thở vào; thở ra, tôi biết tôi thở ra". Đây là bước đầu của Phật dạy trong Ānāpānasati sutta (kinh Quán Niệm Hơi Thở) theo kinh nghiệm thiền định của Ngài trên con đường đưa Ngài đến Đại Giác Ngộ.
Sự hoàn toàn chú tâm vào hơi thở thường được coi là phương pháp dễ và nhanh nhất để hợp nhất thân và tâm. Nhưng tôi không tập được sự định tâm, tức là đưa tâm trở về với thân để nó không chạy lăng xăng. Khi tôi chú tâm vào hơi thở được vài phút thì sự chú tâm phai nhạt dần, là thói quen suy tư đưa tôi lạc vào rừng ý nghĩ. Đi lạc thường rất dễ, vì thở là một phản xạ tự động không cần nhớ và chú ý.
Tôi mất niềm tin ở phương pháp này: nếu định tâm dễ như vậy thì ai cũng đạt được mức thiền định của các nhà sư từng dụng công sáng chiều hàng chục năm! Và không tin rằng chỉ tập trung vào hơi thở là có chánh niệm, thật sự việc đó chỉ giúp tâm không tán loạn thôi.
Khi đã học vài khóa thiền và giáo lý với dòng Thiền Tánh Không, tôi nhận ra mình đã hiểu sai, thực hành sai và không đủ kiên trì. Và nhận thức của tôi cũng sai luôn. Trước hết, đức Phật đã đạt Đại Giác Ngộ nhờ thiền định, mà trước nhất là dùng Niệm hơi thở, nên nó là sự thật được chứng minh. Tôi cũng hiểu sai về từ "Chánh niệm". Chánh niệm không chỉ là đơn niệm, như chỉ biết mình đang thở, hay đang lái xe, đang rửa chén...., mà là niệm “không", không "ta", trống rỗng, là biết rõ mà tĩnh lặng, tức ở trong Tánh Giác, mà Lục Tổ Huệ Năng gọi nó là Vô Niệm.
Tập Thiền Tánh Không : biết không lời trong não
Định khi Thiền là biết rõ ràng trong ngoài, mà không một lời nói thầm trong đầu. Cách giải thích nôm na dễ hiểu này giúp tôi thấy ngay thất bại trước đây của tôi là vì tưởng mình ngồi thiền mà thật ra chỉ là ngồi thừ ra thôi vì các ý tưởng nói thầm liên tục trong đầu. Ngồi mà không nhìn được trong tâm của mình, tức là không thấy được cảm xúc đang có và bị cảm xúc lôi cuốn đi. Trong óc suy luận của tôi, cảm xúc trong tâm mình chỉ biết được qua biểu hiện khóc cười giận ghét và hậu quả của nó, vì tâm không có vị trí xác định trong cơ thể nên không nhìn được như nhìn một bắp thịt co thắt, một vùng da rát, ngứa! Không nhìn được đối tượng tâm của mình, tôi mất rất nhiều thời gian để "an" tâm.
Khoa học não bộ mới tìm ra gần đây vị trí của một vùng rất quan trọng. Đó là hậu hồi đai, một khối vuông có tên precuneus nằm phía sau và trên hồi đai ở thùy chẩm, mà Thầy Thiền chủ gọi "vùng trước nêm (cuneus)". Các tiến sĩ Erb và Sitaram đã xác định vào năm 2010 bằng máy fMRI các vùng não hoàn toàn yên tịnh, khi nghiên cứu não của Thầy Thiền chủ lúc nhập tầng Định cao nhất , vùng ba tánh thấy, biết và xúc chạm của tâm- bậc- thánh và vùng Precuneus (tánh nhận thức biết) nơi thể hiện ngộ đạo Phật, tức TÂM PHẬT. Vùng của cảm xúc tâm đời vọng động bao gồm phía trước hồi đai, đồi thị và dưới đồi, đã được khám phá trước đó. Hoạt động của não thường liên hệ phức tạp đến nhiều vùng qua các tín hiệu trong mạng tế bào não, với các nối kết có thể thay đổi nhờ tính mềm dẽo của não (ví dụ như khi có vùng não bị hư hại vì bệnh hay tai nạn) khiến não tự tạo ra cách thích ứng.
H1 : Hình não bộ với các vùng và vai trò của chúng.
Các tín hiệu có lời do đồi thị tiếp nhận được giải mả sau đó qua phần ý tưởng ở tiền trán biến thành lời nói thầm hay phát ra tiếng, hay biến thành cảm xúc ở dưới đồi rồi biểu hiện lên người. Các tín hiệu có lời lên hậu hồi đai biến thành nhận thức không lời trong vùng precuneus.
Kỹ thuật thiền định của dòng Tánh Không dựa trên một số chiêu thức từ đó thiền sinh có thể rút ra cách hiệu quả cho mình khi hành thiền. Thực hành bước căn bản, lập đi lập lại trong đầu hai chữ "không nói", tôi ngưng ngay nói thầm trong óc trong thời gian giữa hai lần lập lại. Nhưng muốn ngưng nói lâu thật không dễ: buông "không nói" ra một lúc thì ý tưởng lại trở về ! Tôi thử một thời gian các cách "không nói" khác nhau mà Thiền TK đã dạy, như nghe chuông, nhìn chữ "không nói"..., để xem cách nào giúp mình ngưng nói được lâu mà không cần tác (gợi) ý "không nói" thường vẫn trống vắng ý tưởng, để chỉ cần hơi nhá ý lên là có trạng thái yên lặng ngay. Nhưng cách nào có hiệu quả nhất tùy thuộc vào mỗi cá nhân, vì não mỗi người bị cuộc sống huân tập khác nhau nên có phản xạ khác nhau. Riêng tôi, không phải một cách mà một chuỗi nhiều cách, mỗi cách được gợi lên vào lúc thích ứng.
Mấu chốt có lẽ là phải làm sao để ký ức luôn "sẵn sàng", khi gợi là lên ngay, và trạng thái tâm không lời ấy kéo dài. Nhưng khi tập trung quá lại không hiệu quả. Có một lúc, để loại vọng tưởng tôi chú ý thường trực vào tâm để khi thấy ý tưởng trồi lên là lập tức gợi lên trạng thái "không nói". Lúc đó thì thấy hiệu quả, nhưng nghe nặng đầu phía trán và còn đau râm ran suốt cả giờ đồng hồ sau. Tôi có cảm giác phần trán như co lại, giống như khi tập trung suy nghĩ cho công việc; người ta nói bóp trán suy nghĩ nhưng đúng ra là ngược lại, vì bóp trán mà đầu thảnh thơi thì đâu bị co lại! Đây là kinh nghiệm trực tiếp của tôi khi hành thiền sai kỹ thuật; rút kinh nghiệm này, tôi lấy cảm giác đau ran trán làm tín hiệu để biết mình sai khi đang thiền.
Theo bài giảng về não bộ của Thầy, vận dụng trí óc là kích thích vùng tiền trán của vỏ não, ảnh hưởng lên trạm tiếp vận viền não ngay bên dưới, tạo hồi đáp sinh học với vùng dưới đồi bên trong, kích thích hệ thần kinh giao cảm, làm tiết ra mà các chất sinh hóa học gây mất cân bằng trong thân và tâm, dẫn đến bệnh tâm thể, tạng phủ... Để tránh kích thích não ở vùng trán khi ngồi thiền, tôi chỉ quay vào trong, nghe thân thể: hễ chỗ nào đau, căng thẳng thì thư giãn, và nhìn vào cảm xúc, suy nghĩ: nghe và nhìn một cách bình thản, như khi ngồi chơi. Khi thấy mình đang có cảm xúc hay suy nghĩ thì nhẹ nhàng gợi lên trạng thái không nói thầm. Cách này giúp tôi giữ tâm yên tĩnh được lâu hơn nhờ gợi lên trạng thái "không nói" đúng lúc mà không cần tập trung trí vào việc rình vọng tưởng. Tuy nhiên tôi vẫn còn định cà giựt, có lẽ vì thân lẫn tâm vẫn chưa yên, khi thì thân đau nhức, khi thì tâm dính mắc làm mất cái biết không lời từng hồi. Dù vậy, tôi cũng đã học được cách nhìn tâm của mình: trong khoảnh khắc "không nói" thầm trong não (độc thoại hay tự đối thoại) tôi quan sát được vọng tâm, xúc cảm, vì chúng là bụi bậm che không cho mình tự thấy mình. Cũng như khi mình cuối mặt nhìn xuống mặt ao mà không thấy được bóng mình vì mặt ao dao động hay có đầy bụi dơ.
Làm sao ở lâu trong cái biết không lời
Ai cũng mong cho thân an và tâm lạc nhưng thường rất khó giữ trạng thái này lâu. Muốn vậy phải nhận biết rõ cảm giác mà không dính mắc: biết rõ thân đau chỗ nào, biết trong tâm có dao động, biến chuyển, niệm, tưởng phát sinh hay diệt đi. Với thời gian và tập thường xuyên, người tập có kinh nghiệm thuần thục, có ký ức rõ hơn. Và kinh nghiệm và ký ức của tỉnh thức chỉ có khi thực hành đúng, tức là đã hiểu đúng và có kỹ thuật đúng. Về kỹ thuật, tôi nhìn thân dễ dàng nhờ có tập khí công, nhưng phải một thời gian lâu nhìn tâm mình nhờ thực tập các chiêu thức của thiền TK .
3. Thân tâm đồng hành
Biết mà không dính mắc là điểm cực kỳ quan trọng, bởi vì sau khi biết trực tiếp qua năm giác quan của thân (tai, mắt, mũi, lưỡi và thân) người ta thường hay thêm cái nhìn chủ quan làm mất sự "không nói" trong đầu, nên người thiền không vào Định được. Đó là chưa kể đến hôn trầm, mệt mỏi hay thiếu ngủ trước khi ngồi thiền. Trong trạng thái nửa thức nửa ngủ này, đầu tôi gục, lưng khòm. Phải ngửng đầu, lưng và cổ vươn thẳng như có sợi dây kéo lên từ trên đỉnh, mắt hé mở, và gợi lại chủ đề "không nói" nhiều lần để tỉnh thức lại.
Thật rõ ràng :
Khi thiền, thân tâm ảnh hưởng nhau rất nhiều. Ngược lại, khi bị tê hay đau mỏi chỗ nào trong thân thể thì tâm dễ nói thầm (tôi đau quá, phải...). Vì vậy tôi bắt đầu thời thiền bằng cách làm sao cho tư thế ngồi thư giãn thoải mái, nhất là thả lỏng bắp thịt mặt và vai ra, giãn duỗi da trán, thì đầu óc khi đó yên tịnh theo. Trong suốt thời thiền, thỉnh thoảng tôi nhìn quét toàn thân mình và sửa đổi chút ít mới giữ được trạng thái yên tĩnh của thân và tâm
Làm chủ tâm rất khó khi thân thể có vấn đề. Tôi có cột sống bị vẹo, về già bị thêm dây thần kinh tọa bị kẹp; chỉ cần ngồi lệch một chút ở một chỗ nào đó là mông và chân bên phải đau tới mức không chịu nổi. Có khi không ngồi thiền mà bị cái đau đó đánh thức giữa đêm khuya khiến tôi phải đổi sang thế nằm nghiêng co gối. Cắc cớ là càng đau khi càng thư giãn bắp thịt, như thể bắp thịt phồng ra kẹp thêm dây thần kinh. Khi thiền, ngồi bị đau, tôi phải đổi cách ngồi.
Ngồi thiền cần giữ thân bất động cho tâm tĩnh lặng, mới dễ vô định. Nhưng khi đau mà không sửa thân thì cái đau làm thân không yên, tâm dao động theo, vì thế nên sửa tư thế thân để có thể trở lại sự không động. Cũng như vài người khi thiền, tôi hay nghe cổ ngứa, muốn ho mà ráng ngăn vì sợ náo động phòng thiền. Mà càng ngăn thì cái ho sau đó bật ra thành tràng dài. Lúc đó tôi thấy nếu cứ để ho ra liền, đừng chú ý, thì sẽ ho ít hơn. Tôi nghĩ tốt hơn nên để thân và tâm tự nhiên đồng hành, nương nhau mà hướng thượng. Cái gì càng đè nén càng dễ bùng to; vọng tưởng cũng vậy, nếu tôi giơ "gươm -không nói- chém cái bụp", thì vọng khác lại mọc lên.
Hoạt hóa có thể cũng là một hình thức thân tâm đồng hành khi ngồi thiền. Tôi bị thân trên lắc lư theo hướng trước- sau nhẹ và đều. Tôi để ý khi ngồi thiền một chút, lúc thân thể vừa thư giãn đủ để nghe yên và thoải mái không ý tưởng nào, thân tự động hoạt hóa. Trong suốt lúc hoạt hóa, tâm được lúc với thân chuyển động mà không cần tác ý không nói thêm. Hoạt hóa tự điều chỉnh nhịp độ và biên độ, cuối cùng nhẹ rồi ngưng, khi đó thân và tâm cùng yên tỉnh. Thiền Tánh Không lý giải hiện tượng như sau: hệ thần kinh tự quản có khả năng sinh ra những tác dụng sinh học làm hài hòa thân tâm và điều hòa tốt cơ thể, đó là sự hoạt hóa. Việc tập khí công cũng ích lợi cho việc ngồi thiền, qua việc cải thiện sự dẽo dai của chân và khả năng tỉnh thức nhờ năng lượng cơ thể tốt hơn.
Tín hiệu hay ảo giác cảm nhận khi Định
Sau khi tập chiêu "không nói" đến một mức tương đối, tôi cảm thấy cần chuyển qua chiêu thở-hai-thì mới làm cái biết không lời thành vững chắc nhanh. Có lẽ thói quen làm việc trí năng quá lậm, khiến tôi ghi mã số "Không Nói" (thầm trong não) vào ký ức dài hạn khó khăn, trong khi với cách thở -hai- thì tôi cất giữ "Nhận Thức Không Lời" nhanh hơn. Trong chiêu thở-hai-thì, việc thở ra dài hơn thở vô làm không khí phải ra hết khỏi phổi, gây nhận biết rất rõ sự xúc chạm ở bắp thịt bụng tôi, trong khi đó vẫn không nói thầm. Tôi giữ được tánh xúc chạm này vào Ký Ức Thầm Lặng là nhờ Thầy Thiền Chủ cho tập nhiều chiêu thở -hai- thì trong khoá chuyên tu Thiền ở Stuttgart tháng năm 2010. Khi gợi lên ký ức này, tánh xúc chạm đưa tôi ngay vào trạng thái Định : cái biết không lời trở nên rất rõ ràng mỗi khi có tín hiệu đến từ ngoài hay trong não : tín hiệu âm thanh nghe rất rõ như rót vào tai, mùi mạnh vào thẳng trong mũi, thân cảm nhận xúc chạm vi tế trên da trên các mô của đường hô hấp hay cái đau, ngứa của thân, ngay cả mắt nhắm mà vẫn biết ánh sáng qua mi mắt... Đặc biệt là cái đau, ngứa ... nghe đó mà không làm mình khó chịu như trước. Sau vài phút trong trạng thái biết không lời rõ ràng, không cần chú tâm hay cố gắng, hơi thở tôi trở nên đều đặn, rồi càng ngày càng nhẹ nhàng, nhịp đập tim cũng giảm. Đến một lúc, hơi thở nhẹ đến nỗi gần như không có không khí thở vào nữa, tôi bị ngộp hơi. Sau vài lần sợ quá hít mạnh vô ... rồi mất trạng thái định! Sau, tôi bình thản để nó tự nhiên, không quan tâm mà chỉ nghe biết. Rồi cơ thể cũng tự động giải quyết : tôi nghe hoành cách mô co thắt mạnh một vài cái làm co giựt thân người, bụng thót lại rồi nhẹ nhàng giãn ra cho không khí hút vào, trạng thái định lâng lâng vẫn còn đó.
Nếu không vướng vào một chướng ngại tâm trong thiền định (mong muốn, giận, mê mờ, dao động, thiếu niềm tin vững chắc) mà chỉ thuần nhận biết rõ ràng hơi thở mà không dính mắc, thì trạng thái định vững chắc ngay trước mặt. Chướng ngại tôi hay vướng là một chút mong cầu có được định vững chắc nên...không có được. Khi không có chướng ngại, chỉ cần buông bỏ hết, không cố gắng, không tác ý hay theo dõi gì hết, bình thản, tỉnh thức liên tục độ chừng 15 phút, ("ngồi thiền như ngồi chơi") thì đạt sự vững chắc. Khi đó chân có tê đau hay lưng vẫn mỏi mà không làm rối loạn sự tỉnh lặng, và mình cảm nhận được sự an lạc trong thân và tâm. Trạng thái an lạc, cũng như sự hết khó chịu trong thân thể, việc nghe thân mình nhẹ bồng bềnh và không có vật chất gì bên trong, tâm rỗng rang là những tín hiệu khó mô tả chính xác của sự định tỉnh lặng. Cái tịch lặng này không mất khi những dao động bên ngoài cũng như từ trong tâm, dù có đến cũng nhẹ nhàng tự diệt mà không cần tác ý "Không Nói". Giống như ai muốn xô, đẩy ngã đi cái bầu ánh sáng trống rỗng quanh mình cũng không được, dù trong đó trống, không có gì ngoài cái biết; vọng tưởng ít, nếu có nó đến nhẹ nhàng dưới dạng hình ảnh rồi cũng biến đi nhẹ nhàng. Có lẽ khi đó vùng cơ cấu mạng lưới của tôi đóng cửa làm tắt vọng niệm, nên tôi yên được vùng Precuneus và có định vững vàng.
Trong khi định như vậy, tôi có thử tánh vững chắc của nó bằng cách đổi tư thế thân, thế mà cái bầu ánh sáng trống rỗng vẫn còn ở đó, cùng hiện hữu với cái biết (cho đến khi tôi quyết định xả thiền, tức là vẫn làm chủ được việc ở trong định hay đi ra).
Các cảm nhận loại này chỉ có với trải nghiệm định của từng thiền giả, ngôn từ nghe hay đọc không thể đem đến cảm nhận thực đến người chưa trải nghiệm, vì sự diễn tả bằng lời dùng khái niệm mà mỗi người cảm nhận khác nhau qua cái ta. Tuy chúng là ảo giác, nhưng là các ảo giác có thể cảm nhận bởi nhiều thiền giả khác nhau, có thể lập lại, và có hình thức khác nhau ở mỗi người. Chẳng hạn có lúc tôi thấy bầu ánh sáng trống rỗng tôi mở rộng ra chung quanh đến vô tận, và đầu óc nhẹ thênh mở ra, trái ngược với cảm giác đầu nằng nặng co cụm như khi suy nghĩ; tuy nhiên tôi chỉ có an lạc nhẹ nhàng mà, chưa bao giờ có hỉ lạc cực kỳ như một số thiền giả kể lại. Có thể đây là cái may cho tôi, khiến tôi không bị cái ham muốn sự cực hỉ làm mình kẹt lại ở đó. Các ảo giác vững bền của định tỉnh thức này tôi có nghe vài thiền giả TK kể qua trước đó, nhưng tôi không tưởng tượng được nó ra sao, thậm chí từng nghĩ là nó không có thật, vì mình vất vả tập thiền mới với tới cái định vừa phải! Kinh nghiệm định tỉnh thức vững, dù chỉ có một lần, vẫn là kim cương đối với tôi (nhưng chắc chắn tôi chưa đạt kim cang định), vì có nó, tôi tin chắc vào sự đúng đắn của pháp thiền mình đã và đang học với dòng Thiền TK.
***
Kính bạch Thầy, kính bạch Ni Sư, con xin trình Thầy và Ni Sư các kinh nghiệm vất vả của con trên con đường tìm đến thiền. Nhờ có duyên gặp gỡ, nhờ công ơn Thầy Cô và các đồng đạo chỉ dạy, gần đây con mới chớm bước được qua ngưỡng cửa thiền. Dù kết quả rất nhỏ, chưa thể so sánh với nhiều đồng đạo cùng học, nhưng nó khuyến khích con tiếp tục tiến trên con đường đạo và thiền định, để có nhận thức ngày càng đúng với Như lai pháp, tuệ trí ngày càng mở, chánh đạo ngày càng rõ. Con tin chắc là cái định thực hành trong-khi và ngoài-lúc ngồi thiền sẽ làm cái nhìn con ngày càng ít bị bóp méo bởi lậu hoặc và thói quen thẩm định bằng suy luận.
Trong lãnh vực thiền định, con cũng còn phải học và tu tập nhiều cho trạng thái định vững chắc lâu, cho các chủ đề quan trọng trong đạo Phật như vô thường, vô ngã, duyên sinh, chân như, không, huyễn được kiến giải thẳng trong nhận thức không lời. Con chưa biết thấu đáo chiêu thức thực hành, nên con chỉ đơn giãn gợi chủ đề. Bước đầu, không có được kiến giải nào (trống rỗng vẫn còn trống). Một lần gợi chủ đề vô ngã, khoảng trống rỗng trong tâm con bỗng bung mạnh ra, và có một đốm sáng thu nhỏ lại và biến mất. Con cũng không biết có phải đó là một biểu hiện sự kiến giải hay không? Dù sao đi nữa, con thấy cần phải vun đắp thêm cho tuệ giác được vững chắc qua sự hành thiền để có nhận thức đúng hơn, trước khi có thể giúp cho người khác hiểu con đường đúng.
Trọng Tuyên
Đồng Huân-Montreal