ĐẠI THỪA BỒ TÁT THẬP ĐỊA
Trích đoạn trong Bài đọc thêm "BA LA MẬT"
do Hòa Thượng Thích Thông Triệt biên soạn
Tùy theo sự nhận định khác nhau của các vị Tổ trong Phật giáo Phát Triển, nên có nhiều loại Thập Địa với những chủ trương khác nhau được thiết lập. Dưới đây là một thí dụ về ĐẠI THỪA BỒ TÁT THẬP ĐỊA được thuyết minh trong Hoa Nghiêm Nhân Vương. Chúng tôi tóm lược như sau:
1. Hoan hỷ địa: Giai đoạn vui mừng: Skt: Pramuditā bhūmi: Land/Stage of great joy. Biết được nhân vô ngã, pháp vô ngã. Chứng nghiệm hay nhận rõ ý nghĩa Chân Như (tathatā) phổ biến khắp nơi trong thế giới hiện tượng. Đây là điều vui mừng lớn vì bây giờ mới hiểu rõ ý nghĩa Chân Như.
2. Ly cấu địa: Giai đoạn thuần tịnh: Skt: Vimalā bhūmi: Land/Stage of perfect purity. Để bắt đầu tu, Bồ Tát nghiêm trì giới hạnh. Thông qua trí tuệ để giữ thanh tịnh giới, Bồ Tát không bị vướng mắc giới tướng mà cốt làm cho giới thể được thanh tịnh từ trong tâm. Thân, khẩu, ý trong sạch. Ý thức tự chuyển. Đạo đức trong sạch. Phiền não xa lìa.
3. Phát quang địa: Giai đoạn phát sáng: Skt: Prabhākarī bhūmi: Land/Stage of luminosity. Sau khi Chân Như có mặt trong tiến trình định-huệ, chướng ngại của sự ngu si bị triệt (suppressed), dục tham si (kāmarāgamoha - the delusion of desire-covetousness) cũng bị triệt theo. Sự u tối trong tâm không còn. Thần sắc trở nên trong sáng. Nhưng tâm thực sự chưa dừng lặng.
4. Diệm tuệ địa: Giai đoạn trí tuệ rực sáng: Skt: Arciṣmatī bhūmi: Land/Stage of glowing wisdom. Đây là giai đoạn ý niệm “Tôi” và “của tôi” bị triệt. Ngã kiến (ātmadṛṣṭi - self-belief), ngã mạn (ātmamāna - self-conceit), ngã ái (ātmasneha - self-love), và ngã dục (ātmakāma - self-desire) là những phần vi tế nhất bên trong tâm cũng bị loại. Tuy nhiên, trong giai đoạn này, Bồ Tát vẫn chưa thực sự dừng được niệm si mê vốn còn tiềm tàng trong tâm.
5. Cực nan thắng địa: Giai đoạn cực kỳ khó khăn: Skt: Sudurjayā bhūmi: Land/Stage of the mastery of utmost difficulties. Đây là giai đoạn cực kỳ khó khăn nhất để đạt được trạng thái hoàn toàn dừng niệm. Vì Bồ Tát phải hợp nhất hai thứ trí: tục trí (saṃvṛtijñāna - worldly knowledge) và căn bản trí (tattvajñāna - fundamental knowledge) để thực hiện cách dừng niệm si mê tiềm tàng (the delusion and potential thoughts) trong tâm. Tục trí thì cứ suy luận, phân biệt, so sánh. Căn bản trí thì biết rõ ràng, không suy luận. Ở giai đoạn này, tâm Chân Như cụ thể biết những điều:
Trong giai đoạn này, Chân Như (Tathatā) không những tự biết bản chất thông thường (the common essence) của sự hiện hữu hiện tượng (phenomenal existence) mà đồng thời nhận ra (simultaneously recognizes) những hình ảnh gợi lên trong tâm và những diễn biến sự việc (contours) của những hình ảnh đó như là chính tự tướng của mình (its own self-appearances). Chính vì thế, giai đoạn này được gọi là “cực kỳ khó khăn”.
6. Hiện tiền địa: Giai đoạn “mặt hướng đến”: Skt: Abhimukhī bhūmi: Land/Stage of “the face directed towards”. Đây là giai đoạn giáp mặt với những đề mục thiền quán (meditations and contemplations) khác nhau, được thực hành với sự trợ duyên của hình ảnh, ý niệm, khái niệm (sanimitta) với mục đích loại dần quan điểm nhị nguyên. Trong giai đoạn này vấn đề khó khăn đặt ra là bản năng tâm cứ kiến giải liên tục vật trước mặt nó. Nó không thoát ra khỏi sự si mê tiềm tàng bên trong nó cho dù nó được cho biết rằng cứ kiến giải như thế là sai. Vì không thể nào thoát ra khỏi nhị nguyên. Do đó, chính Chân Như trong trường hơp này thường vẫn bị tâm bóp méo (distortedly retained). Tâm như là một đối tượng hay một vật tự chia cách nó hay siêu việt nó. Nhưng cuối cùng, Bồ Tát cũng vượt qua giai đoạn đối đãi hay năng, sở trong thiền quán để bước sang viễn hành địa.
7. Viễn hành địa: Giai đoạn đi xa: Skt: Dūraṃgamā bhūmi: Land/Stage of going far away. Vượt lên trên nhiều lãnh vực đối đãi hay hai mặt của trí năng phân biệt như tịnh/bất tịnh, sanh/diệt, thiện/ác khi áp dụng thiền quán. Nơi địa này, Bồ Tát đã thực sự triệt tiêu được quan điểm nhị nguyên và trở nên thuần vô tướng (có nghĩa “hoàn toàn không có một hình ảnh tự động khởi lên trong tâm”). Bồ Tát đã thực sự tiến xa hơn đối với những người này còn tu theo thiền quán của hàng Nhị Thừa (Thinh Văn và Duyên Giác).
8. Bất động địa: Skt: Acalā bhūmi: Land/Stage of non-agitation, immovable. Hoàn toàn đạt được vô tướng. Qua Không (Śūnyatā), Bồ Tát lãnh hội (comprehends) vạn pháp hoàn toàn không được làm ra và không khác với vô vi pháp hay thực tại không điều kiện. Nhờ trực giác này, Bồ Tát trụ trong vô sinh pháp (anutpāda-dharma: the unborn dharma), ngài lên đến Bát Địa, cảnh giới Bất Động. Đây là trạng thái Chân Như tự ngộ. Tâm không động trước năm cảnh do năm căn tiếp xúc, qua đó ba độc tham, sân, si không còn khởi lên. Phiền não tự chấm dứt. Không rơi vào bốn trọng cấm trong giới luật, như dâm, sát, đạo và đại vọng ngữ. Không thoái chuyển tâm. Nơi đây, ngài đạt được trí vô ngại (the unimpeded knowledge), vô phân biệt trí. Trí này là nền tảng của Phật tánh. Trong luận Đại Trí Độ (Māhāprajñāpāramitā), ngài Long Thọ làm vững thêm (corroborated) lý này và làm sáng cho dễ hiểu (clarified), khi đạt được “vô sanh pháp nhẫn” (anutpattika-dharma-ksānti), Bồ Tát bỏ sắc thân (physical body) sau cùng, và trong Bát Địa, đạt được Pháp Thân. Trong Bát Địa, Chân Như tự ngộ.
9. Thiện tuệ địa: Giai đoạn trí tuệ tốt: Skt: Sādhumatī bhūmi: Land/Stage of the good wisdom. Có nghĩa trí tuệ phân biệt khéo nhất (finest discriminating wisdom). Bằng vô lượng hình thức thiền định và công thức huyễn, Bồ Tát đạt được tính vô hạn (aprameya: the immeasurability) của Phật Tánh, tức trí tuệ siêu việt (transcendental wisdom). Đây là giai đoạn Chân Như tạo ra năng lực chuyển hóa tâm, Bồ Tát đạt được bốn quyền năng vô ngại (unhindered) hay vô hạn (unlimited powers) của kiến giải và lý luận (pratisaṃvid: the interpretation and reasoning). Đó là Từ vô ngại, Pháp vô ngại, Nghĩa vô ngại, Biện tài vô ngại. (quen gọi là Tứ Vô Ngại Giải hay Tứ Vô Ngại Biện).
- Về từ ngữ (arthapratisaṃvid), nhờ thông đạt cách dùng từ vô-ngại, nên khi đi giáo hóa Bồ Tát biết nhiều cách dùng từ ngữ thích hợp với từng đề mục pháp học hay pháp hành. Bồ Tát luôn luôn áp dụng từ ngữ đúng chỗ, đúng nơi để làm cho giáo pháp được sáng tỏ và dễ hiểu.
- Về pháp (dharmapratisaṃvid), trong mọi trường hợp Bồ Tát áp dụng pháp học và pháp hành thích hợp từng căn cơ. Căn cơ nào cũng tiếp thu được đầy đủ và rõ ràng về tên, câu, lời, từ.
- Về nghĩa (niruktipratisaṃvid), Bồ Tát giải thích ý nghĩa rốt ráo các dụng ngữ (expressions) được dùng trong các pháp, không hề bị ngưng trệ, âm thanh trong trẽo, rõ ràng. Người nghe tiếp thu dễ dàng. Đây gọi là Chân Như (Tathatā) hiển lộ năng lực giải thích và hiểu biết tất cả loại nghĩa, dụng ngữ.
- Về biện tài (pratibhānapratisaṃvid), Bồ Tát trôi chảy trong lời lẽ, trong văn cú; nội dung luôn luôn được trình bày hoàn toàn khéo léo và phù hợp chánh pháp. Ngôn ngữ không bị ngưng trệ khi giảng pháp cho người nghe.
10. Pháp vân địa: Giai đoạn “Mây Lành của Pháp”. Skt: Dharmameghā bhūmi: Land/Stage of Dharma clouds. Giai đoạn này Phật tánh thực sự hoàn toàn hiển lộ. Hành giả chìm trong Chân Như hay tự chứng (self-realization) Chân Như trong trạng thái bất khả tư nghị (acintya). Nhiều quyền năng siêu phàm (supernatural powers) và nhiều hoạt dụng công đức tuần tự được triển khai. Những gì huyền nhiệm, bí ẩn vi tế và thâm sâu nhất, được chiếu sáng lên trong Phật Tánh. Trong giai đoạn này, Bồ Tát đạt được Kim Cang Trí Huệ Định (Vajropamasamādhi: the samādhi of diamond-like wisdom).
Hòa Thượng Thích Thông Triệt