Thông Triệt Toàn Tập Chương 4 KHÍ CÔNG: – PHẦN LÝ THUYẾT & MỘT VÀI CÁCH TẬP KHÍ CÔNG CHỮA BỆNH
Monday, August 1, 20225:15 PM(View: 1192)
KHÍ CÔNG – PHẦN LÝ THUYẾT
1. Xuất Nguyên
Xưa bên Tàu, các vị tu theo đạo Lão luyện khí làm thuật trường sinh (luyện tinh hóa khí, luyện khí hóa thần, luyện thần hoàn hư – Ngài Trương Hoành Cừ - Thế Kỷ 2 trước Công Nguyên)
Nay pháp Khí Công được phổ thônghóa thành môn THỞ TĂNG CƯỜNG NỘI LỰC, nhằm chữa các bệnh thuộc về khí huyết, kinh mạch như: thần kinh tọa, thấp khớp, bệnh tim mạch, bệnh nội tạng, v.v…
2. Mục Đích
Tập Khí công để:
- Điều hòa kinh mạch
- Điều hòa khí huyết
- Chữa bệnh tim mạch, thấp khớp, thần kinh tọa…
- Tăng cườnghệ thống miễn nhiễm
- Tăng cường nội lực, sức khoẻ.
3. Tại sao tu Thiền lại có Khí Công?
Khí công không phải là Thiền.
Tuy nhiên, nhiều người muốn tập thiền mà có bệnh, hoặc sức khoẻ kém, khó ngồi lâu, cần tập khí công để bớt bệnh, có thêm sức khoẻ. Xưa Tổ Đạt Ma dạy khí công cho môn đệ để chống lạnh và có sức khoẻ dẻo dai.
4. Lợi ích của Khí Công:
A) Tăng cườngHệ thống Miễn nhiễm
Bạch huyết bào kết thành chùm như chùm nho. Khi Nén khí, gồng cứng cơ bắp làm vỡ các chùm bạch huyết bào. Bạch huyết bào là chất kháng thể, khi ta thở ra chậm sẽ theo máu, đi khắp thân thểdiệt trừ tế bào lạ, vi khuẩn… (Bạch huyết bào đi một chiều, đi xuống nội tạng và ra tứ chi).
B) Trị bệnh
Bạch huyết bào theo máu vào động mạch đi khắp cơ thể, diệt tế bào lạ, mầm bệnh, chất béo, chất độc, vi khuẩn, u bướu. Đó là hệ thống miễn nhiễm, hay đạo quân phòng vệ của chúng ta.
Gân cốt chúng ta ít vận động sinh ra những chứng đau nhức khớp xương. Tập khí công sẽ giúp cho những chổ lắc léo được co giãn, phục hồichức năng dẻo dai, mềm mại, chấm dứt hay giảm bớt các bệnh nhức khớp, thần kinh tọa, đau đầu gối, mắt cá chân.
C) Ly tâm máu
Máu từ tim bơm ra, cộng với sự nén khí và thở ra chậm sẽ thành một dòng máu ùa ra tứ chi và nội tạng gọi là ly tâm máu.
Ly tâm là một hình thức lọc máu, phục hồitính chấtnuôi dưỡng, bổ dưỡng, lành mạnh, cộng với Bạch huyết bào, kháng thể diệt tế bào lạ.
Những hạt máu tốt tươi, khoẻ mạnh sẽ trở thành những tế bào mới thay thế tế bào già nua, bệnh tật.
D) Cọ xát máu
Nén khí xong thở ra chậm chậm giúp cho dòng máu ùa ra mạnh mẽ vào các động mạch, các tế bào máu cọ xát lẫn nhau làm vỡ các phiến máu (clot) là những thứ có thể làm nghẽn tim hay mạch máu não, ta ngừa được chứng heart attack và chứng stroke.
Các phiến máu do đứt tay, chân, trầy xước chảy máu kết lại thành mày (ngoài da) và phiến máu (trong máu).
E) Thông thành động mạch
Cùng với lưu lượng máu ùa mạnh vào động mạch làm nong lớn động mạch và cuốn đi các chất béo đóng bên trong thành động mạch. Mỗi lần một ít, nhiều ngày sẽ làm sạch các chất kết dính ở thành động mạch, giúp cho động mạch hết bị xơ cứng, trở nên đàn hồi. Đó là trị chứng xơ cứng động mạch.
F) Nong các túi phổi
Trong khi nén khí, các túi phổi trước nay lép, được nong ra. Tập nhiều ngày, tăng dung tích chứa dưỡng khí. Bình thườngchúng ta hít thở vào chừng 1-2 lít dưỡng khí, trong khi phổi của một người khoẻ mạnh siêng năng tập khí công có thể chứa tới gần 5 lít dưỡng khí. Tăng dưỡng khí là tăng chất nuôi tế bào não và tăng sự lọc sạch máu ở phổi, tăng thêm sức khoẻ, sức đề kháng, rật lợi ích mà không tốn tiền thuốc.
G) Tăng thêm mao mạch (vi ti huyết quản)
Trong khi nén khí, máu dồn lại trong tĩnh mạch. Đầu tĩnh mạch nở ra sanh thêm nhiều vi ti mạch hay mao mạch. Các mao mạch này ở sát dưới lớp da sẽ đưa máu và kháng thể đều nuôi da và trị các bệnh của da (ghẻ, lác, lang bang, mụn). Tập khí công một ít lâu sẽ thấy da mặt hồng hào, bóng láng. (thế tập đặt biệt đẹp da mặt)
H) Gá ý để dẫn khí đi thông kinh mạch
Khi nén khí, ta gá ý ở chổ đau (đầu gối, khớp xương, vai, lưng, thận…) mượn hơi thở (khí) dẫn huyết đi đến chỗ đau nhức để chữa trị. Vì thế nếu thấy đau không nên sợ, chỉ nên gá ý vào nơi đó suốt 12 tiếng đếm. Tập nhiều lần sẽ giảm bớt đau.
Gá ý cũng dẫn đến máu huyết ra tứ chi, ra da giúp cho cơ thể ấm áp, chống lại khí trời lạnh bên ngoài. Mùa đông, tập khí công sẽ không bị lạnh, trái lại sẽ thấy khí trời mát mẻ, thích hoạt động bên ngoài.
I) Làm cho tỉnh thức, tỉnh táo
Sáng sớm, khoảng 4 giờ thức dậyngồi thiền sẽ thấy còn muốn ngủ, lừ đừ. Ngồi thiền như thế dễ bị hôn trầm, ngủ gục. Nên thở vài ba hơi nội lực, sẽ thấy tỉnh táo ngay.
Cũng vậy, buổi tối, sau một ngày làm việc mệt nhọc, vào tọa thiền cũng dễ hôn trầm. Nên thở vài ba hơi khí công sẽ thấy tỉnh thức ngay.
5. Cách tập
A) Nguyên tắc142
Hít vô Nén Thở ra
Ví dụ: Hít vô: 1-2-3 (3 tiếng đếm)
Nén: 1-2-3-4-5-6-7-8-9-10-11-12 (12 tiếng đếm)
Thở ra: 1-2-3-4-5-6 (6 tiếng đếm)
Hít vô: bằng mũi. Thở ra bằng mũi hay bằng miệng (tùy ý). Hít vô lấy hơi vào lồng ngực ở cơ hoành. Hai tay đan nhau, đứng 2 chân dang ra vừa phải. Cơ bắp thả lỏng.
Nén: Hai cánh tay xuôi thẳng xuống ép vào 2 bên nách, gồng cứng cơ bắp tay-vai-ngực-đùi, nhứt là 2 bên nách và 2 bên háng.
Thở ra: chậm chậm (1/2 thời gian nén) bằng mũi hay bằng miệng. Thả lỏng tất cả cơ bắp, nới lỏng 2 bàn tay, chân rùn xuống, đứng tấn đề phòng ngã té.
B) Nguyên tắc tùy sức
Hít-Nét-Thở ra vừa sức, dành cho người bệnh tim mạch, bệnh chóng mặt, bệnh hen suyễn.
Thay vì 3 tiếng đếm khi hít vô, chỉ 1 hay 2 tiếng đếm. Nén cũng không hết sức, và thở ra không kéo dài hụt hơi.
C) Nguyên tắc tối đa
Dành cho người tập khí công đã lâu. Hít-Nét-Thở ra tối đa.
Thời gian tập: 15-30 phút buổi sáng (người bình thường), người bệnh có thể tập nhiều lần trong ngày.
Mỗi thế tập 5 lần, khi bắt đầu tập.
Khi nén khí, gá ý chỗ đau.
LƯU Ý
- Không tập khi mới ăn xong, còn no. Tập khi bụng trống hay sau bữa ăn 2 giờ.
- Mỗi thế tập 5 lần, về sau tập quen rồi tăng lên 6-7-8…lần. Không quá 12 lần.
- Tốt nhất tập nhiều lần trong ngày (để chữa bệnh) thay vì cố gắng tập quá sức, quá lâu.
- Tập mà thấy có triệu chứng đau nhức thêm, không thấy bớt, nên xem lại có đúng tư thế hay không (hoặc hỏi lại Thiền viện).
- Tập xong, nằm thư giản 5 phút, buông lỏng cơ bắp, thư giản toàn thân (Acetylcholine sẽ tiết ra tẩy chất độc tố Norepinephrine do sự cố gắng tiết ra).
Trong tiếng Pāli, từ mano hay Ý có nghĩa tâm hay tư tưởng tương đương trong tiếng Anh là “mind” hay “thought”. Trong A Tỳ Đạt Ma (Abhidharma), mạt na dùng để chỉ đồng nghĩa với THỨC (viññāna: consciousness) và TÂM (citta: mind, state of consciousness)
Theo quan niệm của Phật giáo thì Niết-bàn là trạng thái tâm thanh tịnh tuyệt đối, nghĩa là tâm dập tắt hoàn toàn ngọn lửa tham, sân, si. Người đạt được trạng thái Niết-bàn là người có thái độ sống an nhiên tự tại “thường, lạc, ngã, tịnh” ngay trong vòng xoáy “Vô thường, bất toại nguyện và vô ngã” nơi thế gian này!
Liebe Freunde, ein Kochrezept zubereiten ist nichts anderes als eine Kultivierungsübung. Um zu überleben, essen wir und praktizieren wir. Daher sind die Prinzipien für eine gute Küche quasi die Prinzipien für eine gute Praxis. Kurz gesagt, alles, was wir tun, ist eine Kultivierung. Der Lebensweg ist auch der Kultivierungsweg. Alles ist abhängig von unserem Geist. Wie er das Objekt wahrnimmt, ist es das Reich, in dem wir leben.
Người “Sống Tùy Duyên Thuận Pháp” là người có tu tập theo lời Phật dạy. Một trong những pháp người đó thực hành là giữ chánh niệm trong bốn oai nghi đi, đứng, nằm, ngồi, hay khi làm bất cứ điều gì, cũng làm trong chánh niệm.
Nếu thành tựu trọn vẹn pháp chánh niệm và tỉnh giác trong bốn oai nghi, các vị Tỳ kheo xứng đáng được mọi người chắp tay cung kính, được mọi người tôn trọng, cúng dường, và được xem như có rất nhiều ruộng phước trên đời.
Mười Hai Duyên Khởi, cũng còn gọi là Mười Hai Nhân Duyên, là 12 nhân duyên liên kết nhau để hợp thành một chuỗi nhân quả (P: nidāna). 12 nhân duyên như 12 mắt xích hay 12 nguyên nhân đưa đến tình trạng Khổ của con người hay tái sinh.
Der Buddha sagte: "Der Tathagata ist nur ein Wegweiser, alleine musst du gehen." Das heißt, du kennst nun den Weg, gehst alleine hin, verlass dich auf niemanden, der richtige Weg ist deine Weisheit, die dich zu deinem ursprünglichen Geist zurückbringt. Im ursprünglichen Geist sind alle Phänomene Buddha-Dharmas, und die Welt ist ein reines und glückliches Nirwana.
Thiền Tánh Không do Hòa Thượng Thiền Chủ Thích Thông Triệt thiết lập, kết hợp những tinh hoa rút từ tiến trình tu chứng và thành đạo của Đức Phật Thích Ca, các truyền thống Phật Giáo Nguyên Thủy, Phật Giáo Phát Triển, Thiền Tông và kỹ thuật Thiền, được soi sáng bởi các khám phá đương thời của khoa học não bộ và các chứng ngộ của Thầy thành một hệ thống tu thiền sâu sắc, tân thời, rõ ràng và hiệu quả.
Vai trò của khoa học não bộ rất quan trọng. Đây là kiến thức thời đại. Chúng ta mượn khoa học não bộ để đối chiếu cách thực hành của chúng ta qua Pháp của Phật. Có như thế chúng ta mới chứng minh được giá trị Pháp của Phật đối với mọi trình độ căn cơ. Chúng ta biết vì sao chúng ta thực hành sai, vì sao chúng ta thực hành đúng.
Wir befinden uns mitten in einem wirbelnden Wasserstrudel, würden wir darin stehen bleiben, würden wir von dem absorbiert werden und wir werden ertrinken. Wenn wir uns bewegen würden, würden wir uns auch nur in diesem wirbelnden Strudel herum drehen. Aber wie können wir denn diesem Lebenskreis entkommen?
Đã không biết bao năm qua, mình khờ dại đi tìm “Qua khỏi vùng sương mù là xứ thần tiên”. Đã bao lần thấy vùng sương mù, bao lần mơ ước sẽ gặp xứ thần tiên, nào có gặp được. Tìm cầu bên ngoài, làm sao có xứ thần tiên. Cuối đời mới biết xứ thần tiên thiệt ở trong tâm của mình.
Đức Phật tự nhận: “Như Lai chỉ là người chỉ đường, các ông phải tự đi”. Các ông phải tự đi có nghĩa là các ông thấy ra con đường rồi, cứ tiến bước một mình, không được ỷ lại nơi ai khác, con đường chánh pháp là trí tuệ của mình sẽ đưa chúng ta trở về bản tâm. Trong bản tâm, tất cả pháp đều là Phật pháp, và thế gian là cõi Phật thanh tịnh an vui.
Tài sản mà đức Phật nói đây không phải là tiền bạc, vòng vàng, châu báu, mà là tài sản về tinh thần, như niềm tin bậc giác ngộ, đạo đức, trí tuệ là những thứ tài sản không bao giờ bị đánh cắp, chiếm đoạt, trừ phi chính người sở hữu tài sản tâm linh đó tự mình phá hủy chúng. Các tài sản quý báu đó có tên gọi là: Tín tài, Giới tài, Tàm tài, Quý tài, Văn tài, Thí tài và Tuệ tài.
Không phải hễ ngộ là chấm dứt hết lậu hoặc! Vì vậy, tuy hạt ngọc đã có sẵn, nhưng ta phải nỗ lực dụng công. Vô ngôn chính là phương thức làm cho Phật tánh bật ra vậy.
Wir müssen in der Lage sein, zu erkennen, wann wir den Bedingungen folgen sollen und wann wir eventuell andere Bedingungen schaffen sollen, um im Einklang mit dem Universum leben zu können, denn wir sind die Schöpfer unseres Lebens, für jetzt und für die Zukunft.
Thực tập phương thức làm chủ sự suy nghĩ, đó là cách ta trực tiếp huấn luyện tâm trở nên yên lặng hay trở nên thuần. Nó không lăng xăng dao động vì những chuyện thị phi (phải-trái) của thế gian.
Những ai hủy phạm giới pháp mà lòng không biết tàm quý, không biết ăn năn, hối hận, không biết sám hối, không chịu từ bỏ tật xấu ác quay về với con đường thiện lương đạo đức, thì hiện tại dù họ đang sống trên đời, nhưng sống trong thống khổ, vì phải chịu trả giá những tội lỗi của họ gây ra...
Hôm nay, thấy hoa thủy tiên nở rộ, hoa mai cũng e ấp đón gió mát, con biết mùa xuân sang. Đã tới mùa mừng sinh nhật Thầy. Thầy đã xuất hiện nơi cõi đời nhằm mùa xuân, Thầy đã thấy con đường, cũng một mùa xuân năm đó, rồi Thầy ra đi, một đêm cuối mùa đông.
Chúng ta đang ở giữa biển nước xoáy, nếu chúng ta đứng lại nơi đó thì ta sẽ bị đắm chìm cuốn hút và chết đuối. Nếu chúng ta bước tới, cũng chỉ là loanh quanh trong biển nước xoáy thôi, bước tới hay bước lùi, có khác gì đâu, rồi cũng trôi giạt bồng bềnh trong biển đời, không ra khỏi. Vậy thì làm sao đây?
GEDANKE heißt in Chinesisch “mạt na”. Wahrscheinlich wurde es aus dem Wort “Manah oder Manas“ in Sanskrit übersetzt. “mạt na” (S: Manah) oder Gedanke bedeutet die Denkfähigkeit oder das Denkvermögen. In English heißt er “the capacity of thought”, “the thinking faculty”. In Pali bedeutet das Wort Mano der Geist oder der Gedanke. Im Abhidharma wird Manha gleichgesetzt mit Bewusstsein (viññāna) und Geist (citta, Bewusstseinszustand).
Ngày lành tháng tốt đối với người Phật tử là ngày đẹp trời, thuận lợi cho mình và cho mọi người tham dự, có thể xem là một trong những điều kiện góp phần vào kết quả chứ không phải là yếu tố tối quan trọng quyết định sự thành công hay thất bại. Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Chúng ta phải sáng suốt biết lúc nào nên tùy duyên, lúc nào phải tạo duyên tốt, phải biết mình sống có thuận pháp không, vì chính mình là chủ tạo ra cuộc đời của mình, trong bây giờ và mai sau nữa.
Việc làm bếp đâu có khác việc tu tập. Làm bếp để sống, thì tu tập cũng để sống thôi. Cho nên những nguyên tắc để làm bếp tốt cũng là những nguyên tắc để tu tập tốt. Việc gì ta làm cũng là tu tập, con đường đời cũng là con đường tu, do nơi cái tâm của mình, nó thấy ra sao. Nó thấy ra sao, đó là cảnh giới mình đang sống.
Trời đất vô tình, vạn vật vô tình, mà vạn vật biết sống hài hòa với hoàn cảnh tự nhiên. Chúng ta có trí, có tri giác, có tình cảm, vậy phải biết sống đời thiện lành, quan sát tâm mình từng giây phút, ý nghĩ đúng, lời nói đúng, hành động đúng...
Sống ở đời ai cũng mong cầu được hạnh phúc. Hạnh phúc là gì? Các nhà tâm lý học ngày nay mô tả hạnh phúc là một trạng thái tâm lý tích cực của con người được thể hiện bởi cảm giác vui vẻ, thích thú, hài lòng trước những đầy đủ về vật chất và thoải mái về tinh thần. Nó khiến bản thân người ta cảm thấy yêu đời hơn.
Das Naturgesetz regelt alle Phänomene. Es ist gleichzeitig ihr Evolutions- und Entwicklungsgesetz. Es gründet das Universum, regelt den Ablauf des Universums, schützt und pflegt die Existenz des Universums. Die Welt ist offenbar eine wunderbare Harmonie von Idappaccayatā.
Đọc tụng bài kinh “Bát Đại Nhân Giác” chúng ta học theo tinh thần từ bi, lấy trí tuệ làm sự nghiệp của chư Phật, chư Bồ tát. Kinh nhắc nhở chúng ta tám điều quan trọng cần phải học hỏi tu tập. Đó là phải luôn quán xét vạn pháp trong đó có tấm thân ngũ uẩn của con người không thực chất tính nên nó vô thường, khổ, không, vô ngã...
Mạt na hay Ý có nghĩa năng lực của tư tưởng hay năng lực tư duy, Trong tiếng Pāli, từ mano hay Ý có nghĩa tâm hay tư tưởng, Trong tiếng Pāli, từ mano hay Ý có nghĩa tâm hay tư tưởng tương đương trong tiếng Anh là “mind” hay “thought”. Trong A Tỳ Đạt Ma (Abhidharma), mạt na dùng để chỉ đồng nghĩa với THỨC (viññāna: consciousness) và TÂM
Tánh giác không từ đâu đến. Nó không nằm trong quy luật duyên sinh của hiện tượng. Ta không thể khám phá nó khởi ra từ đâu khi có sự xuất hiện của con người trên quả đất.
Realität ist nicht 100%ig echt aber auch nicht 100%ig illusorisch.
Oder
„Das Gerade jetzt“ existiert, ist „echt“ und gleichzeitig „illusorisch“.
Oder
In der Realität ist eine Illusion vorhanden und in der Illusion existiert eine Realität.
Định luật Y Duyên Tánh vận hành tất cả thế gian. Nó cũng là định luật biến hóa và phát triển, là sức sống mãnh liệt, đã thành lập vũ trụ, điều hành vũ trụ, và bảo vệ duy trì sức sống của vạn vật. Thế gian biểu hiện sự hài hòa tuyệt vời theo sự biến hóa khách quan của “Y Duyên Tánh”. Vậy, các bạn thân ơi, đây có phải là một bức tranh puzzle tuyệt vời không?
Chỉ có người thực sự bước vào dòng Thánh mới kinh nghiệm được thọ thanh tịnh. Người còn nhiều dính mắc không bao giờ kinh nghiệm được nhận thức ngoài cảm giác.
Der Buddhismus betrachtet die „Geburt“ nicht als Beginn eines neuen Lebens sondern die Geburt beginnt bereits mit dem Tod, dann folgt eine Rückkehr und eine erneute Geburt. Diesen Zyklus: Geburt und Tod, Werden und Vergehen, nennt man im Buddhismus den Daseinskreislauf (Samsara) und Alter ist ein Teil dieses Lebenskreislaufs.
We use cookies to help us understand ease of use and relevance of content. This ensures that we can give you the best experience on our website. If you continue, we'll assume that you are happy to receive cookies for this purpose.