HỘI THIỀN TÁNH KHÔNG TRUNG ƯƠNG

HT Thích Thông Triệt: NHƯ THỰC TRI - NHƯ THỰC KIẾN - NHƯ THỰC TRI KIẾN

Wednesday, July 27, 20226:49 AM(View: 2930)

NHƯ THỰC TRI,
NHƯ THỰC KIẾN,
NHƯ THỰC TRI KIẾN.


Trích đoạn trong Bài đọc thêm "NHƯ THỰC TRONG PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY"

do Hòa Thượng Thích Thông Triệt biên soạn

 

Dưới đây là phần giải thích ba dụng ngữ (expressions) “như thực tri”, “như thực kiến” và “như thực tri kiến” trong hệ Nguyên Thủy. Nếu nắm vững một trong ba cách “Như Thực - Yathābhūta” ta có khả năng mở ra những mấu chốt trong phương pháp tu Huệ của hệ Phát Triển và Thiền Tông.

 

1.    Như thực tri nghĩa trí biết như thực; biết sự vật hay đối tượng nó là như vậy hay như thực; biết chân tánh (của hiện tượng); biết tuyệt đối. (P: Yathābhūta-ñāna; Skt: Yathābhūta-jñāna; the knowledge of the thing or object as it is or as in reality; the knowledge of the true nature (of phenomena); absolute knowledge). Đây là cái biết của trí tuệ. Thuật ngữ này được kết hợp với 3 từ:

 

a.    Yathā: như, giống như: as, like.

b.   Bhūta: thực, chân, sự thực, đúng (đối nghịch với giả): the real, true, reality, right (as opposed to the false).

Trong ngữ nguyên, bhūta là quá khứ phân từ (past participle) của động từ bhavati. Bhūta có nghĩa đã trở thành (has become) hay đã là (been). Bhavati có nghĩa “trở thành” (to become), “là” (to be); “hiện hữu” (to exist). Nó thường được dùng để chỉ điều gì (đã) đang là (what has come to be) mà không có xác định thời gian (của sự vật hay thực thể hoặc hiện tượng). Đây là trạng thái “kết quả của sự trở thành như vậy” của sự vật hay thực thể hoặc hiện tượng. Thuật ngữ bhūta thường được dùng để chỉ trạng thái tự nhiên (nature) của sự vật hay thực thể (entity) hoặc hiện tượng.

Thí dụ: Khí trời hôm nay nóng. “Nóng” là “kết quả trở thành của khí trời” trong ngày hôm nay. Nó cho biết trạng thái tự nhiên của khí trời như thế nào vào ngày hôm nay. Tất nhiên khí trời hôm nay khác hơn hôm qua. Như vậy “nóng” là sự thực. Nóng là trạng thái đang là của khí trời hôm nay. Nó là “kết quả của sự trở thành như vậy” vào ngày hôm nay, và chỉ hôm nay mà thôi, vì ngày mai chưa chắc gì khí trời nóng như hôm nay, và ta cũng không cần biết do nguyên nhânđiều kiện nào làm cho khí trời trở nên nóng. Đó là ý nghĩa “thực” hay “đang là” của từ bhuta.

 

Yathābhūta: như thực có nghĩa phù hợp theo sự thực (according to the reality); phù hợp với sự kiện (correspondance with fact); thực (really) như trong sự thực (as in reality, as in truth), trong bản chất thực của nó (in its real essence).

 

Đây là trường hợp thông qua năm giác quan, cảm thọtri giác kinh nghiệm về điều gì chứ không qua sự mô tả, sự đồn đãi (dư luận), sự truyền miệng của người khác về điều gì. Thông thường sự kinh nghiệm này dựa trên tri giác, tức “tưởng - sañña”, chứ không dựa trên khái niệm tư duy (conceptual thinking). Sau khi kinh nghiệm xong, điều ta biết được gọi là “như thực”.

Thí dụ: Khí trời Nam Cali thường được nhiều cư dân tại đây mô tả là “ấm” như tại Nam Việt Nam. Sau khi nghe nhiều người nói như thế, trong đầu tôi liền tạo ra một sự kiện khái niệm (a conceptual fact) về ý nghĩa “ấm” qua sự mô tả của nhiều người. Tôi hình dung hay tưởng tượng sự “ấm” kia như thế nào đó. Đồng thời tôi cũng liên tưởng đến những bằng chứng “ấm” mà tôi đã kinh nghiệm ở Nam Việt Nam trước đây. Lúc bấy giờ trong đầu tôi lập thành một nhận thức “ấm” với sự giúp đỡ của những tiếu trình nói thầm trong tâm.

Thí dụ: “Ấm” giống như ở Sàigòn hay “ấm” giống như ở các tỉnh miền Đông Nam Việt Nam v.v... Như vậy, lời nói “ấm” này là lời hư giả (a verbal delusion), vì đàng sau lời nói “ấm” không có sự hiện hữu cái “ấm” như thế nào để tôi nhận ra đúng được cái ''ấm” của trời miền Nam Cali phù hợp với cái “ấm” của trời miền Nam Việt Nam qua chính tri giác của tôi. Như vậy, “ấm” này không đúng như thực, vì tôi chỉ nghe nói, chứ không cảm nhận được qua chính tri giác của tôi.

Đến khi tôi di chuyển từ tiểu bang Washington, miền Tây Bắc nước Mỹ đến sống tại Nam Cali trọn một năm, lúc bấy giờ tôi mới thực sự kinh nghiệm sự “ấm” kia như thế nào. Tôi nhận ra điều mà tôi nghe nói trước kia, hôm nay phù hợp với sự thực, qua chính kinh nghiệm của sự kiện tri giác (perceptual fact) của tôi.

 

Như vậy, trong “như thực” không có suy luận, không có tưởng tượng, không có tự kỷ ám thị, không có dồn nén tình cảm, không có tập trung tâm vào đối tượng. Như thực được phản ánh bằng cái biết không lời (nonverbal knowledge or wordless awareness) thông qua sự kiện tri giác bằng nhận thức biết (aware cognitions) của cơ chế tánh giác (the mechanism of the awareness nature), trong đó không có tự ngã; còn nghe nói thông qua sự kiện khái niệm, trong đó có tự ngã và bằng nhận thức của trí năng.

 

  1. Ñāna (Skt: jñāna): tri thức, kiến thức, trí, sự biết: knowledge, knowing.

Trong Pali: ñāna, cũng như trong Skt: jñāna, có nhiều nghĩa. Nghĩa thông thường là trí thông minh (intelligence), tri thức, trí (knowledge), sự nhận ra (recognition), sự biết (knowing); đối nghịch với añāna hay ajñāna (thiếu trí hay vô trí), hoặc avijjā (vô minh). Trong trường hợp này, ñāna hay jñāna là cái biết có lời (the verbal knowledge). Ngoài ra, nó cũng thường được dùng đồng nghĩa với paññā (tuệ/huệ); khi đó nó có nghĩa là trí tuệ tâm linh (spiritual wisdom) hay tuệ trí (insight), hoặc thượng trí (higher knowledge). Trong trường hợp đồng nghĩa với huệ/tuệ (paññā) hay có nghĩa tuệ trí, hoặc thượng trí, ñāna (jñāna) dựa trên cái “Vô sanh” tức tánh giác. Trong trường hợp này, nana hay jñāna là cái biết không lời (the nonverbal knowledge or wordless awareness).

 

Khi ñāna hay jñāna được kết hợp vói Yathābhūta, lập thành Yathābhūta-ñāna hay Yathābhūta-jñāna, dụng ngữ này có nghĩa “như thực tri”.

Trong triết học Phật giáo, khi Thực tại tuyệt đối (ultimate Reality) được đề cập đến trong các bản văn, Thực tại đó dựa trên như thực tri. Bởi vì Thực tại tuyệt đối dựa trên không lời (wordless) hay trên vô ngôn (nonverbal). (Đây là đầu mối giúp chúng ta nhận ra những Thực tại tuyệt đối trong văn học Bát Nhã của Phật giáo Phát Triển và Thiền Tông, khi chúng ta gặp các từ Chân NhưTánh Không.)

 

Khi Ñāna (jñāna) có nghĩa kiến thức hay tri thức (knowledge), trường hợp này Ñāna (jñāna) dựa trên trí năng. Trên trí năng thì Nana (jñāna) (cái biết) có kèm theo tên gọi hay có định danh đối tượng. Bởi vì đặc tính của trí năng là có lời. Nó thuộc thành phần của Ý căn. Ta cũng có thể nói: tri thức (knowledge) dựa trên Tưởng (perception), vì thông qua các căn tiếp xúc với ngoại trần (external objects/worlds) tức đối tượng, tri giác nhận được dữ kiện từ Thọ. Cho nên tri thức (knowledge) này được xem là sự phản ánh đối tượng. Bởi vì chính đối tượng không có năng lực pha trộn (the power of amalgamating) với tên gọi (name) để tạo ra những loại danh xưng gì cho nó. Bản chất đối tượng vốn không có tên gọi, nó là vật trống rỗng (bare thing). Trong nó không có chứa tên gọi hay tên gọi không có gắn vào (append) trên nó. Cho nên, đây là chỗ các nhà Phật học Phát Triển xếp các loại danh xưng được gắn trên vật hay hiện tượng là “giả danh”.

 

Như thực tri (P: Yathābhūta-ñāna; Skt Yathābhūta-jñāna) là thuật ngữ chỉ sự “biết như thực” về sự biểu lộ trạng thái tự nhiên của hiện tượng đúng với phẩm chất hay trạng thái đang là của nó. Tức là vật như thế nào, “ta” (tánh giác) biết y như thế đó. Đây là thái độ biết đúng như cái hiện có do tánh giác đảm nhận. Trong tiến trình biết này không có khái niệm tư duy hiện hữu, không có ý niệm “ta” hiện hữu. Nhưng sở dĩ gọi “ta biết” đó là vì muốn làm rõ nghĩa chủ thể biết để mô tả trạng thái biết này như thế nào. Cho nên, từ ngữ “ta” được tạm mượn hay được “giả lập”. Thực sự, lúc bấy giờ chỉ có trạng thái đang là của đối tượng và sự nhận biết không lời của tánh giác đang chạm đến đối tượng.

 

Chính vì hai điều kiện này được có mặt trong tiến trình biết, nên sự thấy biết kia mới được gọi là “như thực tri”. Như vậy, như thực tri là cái biết của tánh giác về trạng thái đang là của đối tượng như thế nào. Trong đó chỉ có sự thầm lặng biết (tacit awareness/silent awareness) đối tượng mà không có sự suy luận, không có sự suy đoán hay sự viện dẫn về đối tượng.

 

Điều này có nghĩa thể tánh (the nature) của sự kiện hay sự vật hiện đương như thế nào, tánh giác biết đúng như thế đó; không thêm, không bớt, không thêu dệt vẽ vời, không tưởng tượng, không suy luận. “Ta” nhận thức đúng trạng thái như thực của đối tượng hay hiện tượng trước mặt. Tâm ba thời không có mặt trong trường hợp này; trái lại, chỉ có nhận thức biết. Qua đó, tâm xúc cảm phiền não, khổ đau hay xung đột nội tâm không có mặt trong trường hợp này.

 

Thí dụ: Nóng, biết nóng. Đau, biết đau. Đói, biết đói. Khi hít thở vào, bụng phồng lên, biết có sự phồng lên. Khi thở ra, bụng xẹp xuống, biết có sự xẹp xuống. Thấy các loại hoa trên bàn Phật, ta biết rõ ràng chúng đang như thế nào, ta không suy luận về chúng. Trong tiến trình biết này không có ý niệm người biết. Nó được xem là cái biết tuyệt đối (absolute knowledge), cái biết trong sạch, cái biết không có sự phản ánh ý thức (reflective consciousness), không có nói thầm (tầm), không có đối thoại thầm lặng (tứ), vì không có trí năng biện luận, không có suy nghĩ tính toán, không có ngã. Trong nó không có sự lập thành ngôn ngữ; trái lại chỉ có hình ảnh sinh động (a vivid image) được lập thành biểu tượng trong tâm về sự nhận biết (awareness) đối tượng như thực.

 

Tác dụng của cách biết này giúp ta gạt bỏ những thành kiến, định kiến, thiên kiến chủ quan về đối tượng. Tâm ta dễ trở nên trong sạch. Nếu có; biết có. Nếu không có; biết không có. Đây là biết đúng như thật. Như kinh nói: “cái gì hiện hữu biết nó hiện hữu, cái gì không hiện hữu, biết nó không hiện hữu” (santam vā atthí ñassati asantam vā natthí ti ñassati). Đây là điều kiện cơ bản để dẹp tâm nhị nguyên hay phân biệt trí. Nó cũng là điều kiện cơ bản giúp ta “hàng phục vọng tâm, an trụ chân tâm” theo kinh Kim Cang đề cập.

 

Thí dụ về tiến trình tri giác:

Có một trái xoài màu xanh đặt trên bàn. Khi thấy trái xoài, tôi biết ngay trái xoài đó màu xanh. Đây là biết như thực, vì giác quan của mắt thực sự chạm trán đối tượng, sự biết như thực này được thể hiện dưới hình thức thầm nhận biết do tánh giác đảm nhận. Tôi không thể nói thêm điều gì khác hơn về trái xoài xanh. Tôi không thể nói trái xoài này “chua” vì nó có màu xanh, hay nói nó “còn sống”. Nếu tôi nói nó “chua”, vị chua là vị do tôi suy luận hay tưởng tượng để dán nhãn trái xoài xanh. Bởi vì tôi chưa ăn trái xoài làm sao tôi biết nó chua? Chua là do tưởng tượng lập thành, chứ nó không phải là vật hiện hữu. Chua chỉ là khái niệm. Cảm thọ và (tưởng) tri giác để nhận ra “chua” không có mặt trong trường hợp này. Vì lưỡi tôi chưa nếm được vị chua. Tuy nhiên, ý niệm “chua” sở dĩ được lập thành trong tâm tôi chỉ vì tôi đã kinh nghiệm về trái xoài sống mà tôi đã ăn trong nhiều năm trước đây, nên bây giờ tôi nghĩ rằng trái xoài xanh này cũng “chua” như những trái xoài sống khác. Đây là biết do sự giúp của lời (words) để tạo thành khái niệm hay tạo thành suy luận hoặc tưởng tượng. Bởi vì, trên thực tế, có những loại xoài tháp, tuy vẫn có vỏ xanh mà khi gọt ra, ruột vàng, ăn rất ngọt, hoặc có loại xoài tượng, tuy có vỏ xanh mà trong ruột đã chín, nên ăn ngọt. Chứ không phải tất cả loại xoài da màu xanh đều “chua”.

 

Vì thế, biết như thực không phải là cái biết do tưởng tượng lập thành. Nó là cái biết không có thành kiến chủ quan (subjective biases) mà là cái biết có chánh trí, có thực trí. Do tâm không dao động lập thành. Tưởng tượng là cái biết không có chánh trí, không có thực trí, vì tưởng tượng là nhận thức mơ hồ, khái niệm mơ hồ về đối tượng. Theo sau nó là nhiều dạng lời suy luận được lập thành. Nói cách khác, hoạt động tưởng tượng được phát ra trong tâm bằng cái biết có lời, nó dựa trên lời, nó tùy thuộc vào sự thêu dệt lời của ý căn hay của trí năng. Tự ngã xuất hiện trong trường hợp này. Càng tưởng tượng nhiều, lời càng phát ra nhiều nội dung khác nhau theo những mức độ tưởng tượng. Những bản chất phàm tục dính mắc, chấp trước của tự ngã càng được dịp lộ ra tự do. Cuối cùng đưa đến những mức độ biến động tâm lý khác nhau, tạo ra những dán nhãn chủ quan, những tưởng tượng xúc cảm tâm lý, những lo âu, sợ hãi, sân hậnphiền muộn. Đây không phải là biết như thực mà là biết hư dối. Mạng lưới nghiệp bất thiện được lập thành trong tiến trình biết do suy luận.

 

Tập khí hay lậu hoặc lại có dịp huân tập thêm vào nghiệp thứccuối cùng ta khó tránh khỏi bệnh tâm thể như cao máu, tiểu đường. Chỉ vì khi tưởng tượng, tế bào não vùng tiền trán tác động vào giao cảm thần kinh, làm cho hai chất nước hóa học là norepinephrine và epinephrine tiết ra.

 

Thí dụ khác về tiến trình tri giác:

Nếu tôi thấy con rắn, niệm biết (a thought of awareness) liền được phát ra trong tâm. Hình ảnh con rắn mà tôi đương thấy liền được lập thành biểu tượng từ vùng kiến giải tổng quát. Nếu tôi đã có kinh nghiệm chắc chắn về màu sắc cũng như đặc tính và tên gọi của nhiều loại rắn, vùng kiến giải tổng quát liền kiến giải loại rắn mà tôi đương thấy thuộc loại gì, độc hay không độc. Bởi vì trên thực tế có loại rắn nước và trăn tuy cũng mang hình dáng tương tự như rắn mà không độc. Chứ không phải tất cả loài rắn đều độc. Đây là cái biết như thực về con rắn thông qua tri giác, trực giác và sự phân tích của vùng kiến giải tổng quát, sự hiện diện con rắn trước mặt tôi được lập thành nhờ tri giác sự kiện hoạt động và nhờ khu kiến giải tổng quát giải ra những nét đặc biệt về con rắn, nên cái biết như thực xảy ra. Trong tiến trình biết này hoàn toàn không có sự pha trộn (amalgamation) với lời nói thầm xuất hiện.

 

Thí dụ về tiến trình suy luận hay tưởng tượng:

Nếu có người nào đó nói ra lời “con Rắn Thần ở Kim Tự Tháp”. Tôi tiếp thu câu nói của lời này vào trong tâm. Đồng thời tâm tôi liền khởi lên ý niệmhình ảnh của con vật kỳ quái mà lời nói “Rắn Thần” biểu thị (signifies). Không cần có con vật trước mặt, nhưng qua định danh bằng lời, con vật mang tên Rắn Thần liền hiện diện trong óc tôi, vì tâm đã dựa theo lời để tưởng tượng con vật đó theo sức tưởng tượng của nó. Đây là sự biết được phát ra trong tâm bằng tưởng tượng. Sự biết này không phải là biết như thực.

Như vậy, biết như thực là thái độ quán sát sự vật hay sự kiện của người có năm giác quan, và vùng kiến giải tổng quát còn nguyên vẹn. Khi năm căn thực sự tiếp xúc năm đối tượng, người này dễ dàng nhận ra chân tướng như thực của đối tượng. Tâm không rơi vào sai lầm, đưa đến nhận thức đúng đắn và có quyết định đúng đắn. Nó không phải là cái biết bằng suy luận, bằng hình dung hay bằng tưởng tượng về đối tượng lập ra; trái lại nó trực tiếp nhìn thấy đối tượng bằng giác quan hay bằng tánh giác.

 

Thí dụ khác:

Theo truyền thống Ấn độ, “Nơi nào có khói; nơi đó có lửa. Có khói trên núi; như vậy, có lửa trên núi”. Đây là “sự biết có lửa” qua suy luận. Vì chỉ thấy “khói” mà không thấy “lửa”. Như vậy ở đây, lửa được xem là đối tượng vắng mặt; khói là đối tượng có mặt. Lý do là ta không thấy lửa mà chỉ thấy khói. Do đó, lửa được nói đến do suy luận. Như thế, suy luậnnhận thức đối tượng qua dấu hiệu của nó là khói, chứ không phải qua thấy như thực đối tượng là lửa. Cho nên, suy luận không phản ánh thực tại tối hậu hay không đúng với sự thực vì nó không phải là cái thấy biết bằng giác quan hay bằng tánh giác mà bằng sự hình dung hay tưởng tượng qua trí năng.

 

Thiền xem sự hiểu biết bằng suy luậnchướng ngại của ngộ hay của sự phát triển tâm linh từ vùng tánh giác. Cho nên, biết như thực là cái biết trực tiếp (direct knowledge) hay trực quan/giác (intuition), nó trái ngược với cái biết gián tiếp hay biết bằng khái niệm (concepts). Nó là cái biết không phải bằng suy tư nghĩ tưởng, không phải bằng trí phân biệt mà bằng một trong các tánh của vùng kiến giải tổng quát bên trong não bộ, sau bán cầu não trái. Người mới thực hành thiền không thể có kinh nghiệm được loại cảm giác tri giác như thế. Nó là năng lực biết trong trạng thái tỉnh thức (awakening) của tánh giác. Người xưa xem người có năng lực biết tỉnh thức này là người đã bước vào “Dòng Thánh thứ nhất” hay ở cấp “thứ bảy trong mười cấp của hàng Bồ tát”. Trên thực tế, nó là cái biết (awareness) không thể nhận được bằng trí năng, cũng không phải là tiến trình hoạt động của sự hiểu biết được gọi là “trí tác vi” (intellection).

 

Chân lý được thiết lập trên tiến trình biết này luôn luôn đưa đến sự kiện ngộ (a realized fact). Còn chân lý được thiết lập trên sự kiện khái niệm (a conceptual fact) không thể đưa đến ngộ.

 

Tóm lại, như thực tri là cái biết không lời (wordless awareness) đầu tiên của nhận thức được rực lên (kindled) khi giác quan tiếp xúc đối tượng. Trong nó không có khái niệm, không có một sự định danh, không có ngôn ngữ, không có sự tạo ra bất kỳ ý nghĩ gì. Nó được xem là cái lóe sáng của trí (knowledge) và cũng là cái lóe sáng của nhận thức (cognition) lúc đầu. Chính cái lóe sáng biết này (this flash of awareness) là điều kiện cần thiết của ngộ trong Phật giáo hay “kiến tánh” trong Thiền tông. Nó cũng là nền tảng của tuệ giác (intuitive wisdom) hay trí tuệ Bát Nhã (insight wisdom) và cũng là nền tảng của những Thực tại tối hậu trong hệ thống học thuyết Bát Nhã.

 

Chú ý:

  • Theo sau ánh sáng lóe lên đầu tiên của sự biết, nếu trí năng tham gia hoạt động, nó sẽ hình dung để lập thành những khái niệm, những tâm lý xúc cảm, những hình thể hay hình ảnh đối tượng. Trong tiến trình này nhận thức bằng suy luận được lập thành, trong đó có sự kết hợp với ý thứctrí năng. Đến đây, nó không còn là nhận thức như thực hay biết như thực nữa mà là sự nhận ra (recognition) do suy luận. Như vậy, nhận thức như thực là nhận thức bằng tánh giác. Nơi đây tánh giác chỉ nhận thức đối tượng bằng hình thái trống rỗng (the bare form) hay vật trống rỗng (the bare thing), tức là chỉ có chân tướng của chính vật đó tại vùng kiến giải tổng quát mà thôi, chứ không có thêm bất cứ điều gì, hình dáng gì, hay bất cứ đặc tính chung, đặc tính riêng nào liên quan đến đối tượng.

 

  • Ngược lại, cũng theo sau ánh sáng lóe lên đầu tiên của sự biết (awareness) nhưng trí năng không hoạt động, tự ngã không xuất hiện, mọi sự suy luận, tưởng tượng không khởi ra; ngay lúc đó, tuy cũng là sự nhận ra (recognition) nhưng sự nhận ra này ở mức độ giải quyết mối nghi mà từ lâu ta đã bế tắc. Đây là điều kiện cần thiết của Thiền trong ba hệ. Thuật ngữ Thiền gọi là ngộ (P: sacchikarana: realization; P: sacchikaraniyā: realized).

 

Chính vì vậy, tuy cũng cùng thông qua cái lóe sáng biết đầu tiên, nhưng tiếp theo sau, nếu có trí năng tham dự vào, cái biết đó trở thành méo mó, không còn như thực; không thể đưa đến ngộ hay phát triển tâm linh.

 

Trong việc tu Thiền, ta cần có cái biết như thực. Nó là nền tảng của tâm yên lặng (Chỉ-samatha), tâm định (Định-Samādhi) và Huệ (Paññā-wisdom). Nó cũng là nền tảng của Chân đế Bát Nhã. Bậc kiến đạo ngộ được chân lý tối hậu thông qua biết như thực.

 

2.    Như thực kiến có nghĩa thấy như thực (P: Yathābhūta-dassana; Skt: Yathābhūta-darsana: seeing things as they really are). Ở đây, trong tiếng Pali, từ dassana có những nghĩa: nhìn (looking), thấy (seeing), nhìn, xem (view).

 

Ta đã biết nghĩa như thực ở đoạn văn trên, riêng từ “Kiến”, có nghĩa “thấy” (P: dassana; Skt: darsana: seeing, sight, vision). Nó có nghĩa hiểu biết (understanding), sự hiểu thấu bên trong sự vật, tức tuệ trí (insight), lãnh hội (comprehension) và trực giác (intuition). Nó thường được dùng kết hợp với ñāna, gọi là “biết và thấy” (ñāna-dassana - knowing and seeing). Sự thấy biết này được nhận ra bằng tuệ trí chứ không phải bằng suy luận của trí năng. Cho nên nó cũng được xem là nền tảng của huệ (wisdom). Người bình thường không thể có mức độ thấy biết như thực này.

 

Đôi khi dassana hay darśana được dùng để chỉ tuệ trí (insight). Đó là trường hợp thấy đạo, thấy tánh, thấy tâm, thấy vật, thấy nghiệp chướng v.v... Nói chung là thấy thực tướng hay thấy thực tánh hiện tượng thế gian. Đây là cái thấy đúng, phù hợp với sự thực. Tuy nhiên, nếu đi sâu vào từ ngữ “thực”, trên thực tế không có tâm (mind) hay cảm giác khái niệm nào có thể lập thành từ ngữ “thực” đúng với nghĩa “hiện hữu thực sự” của nó, ngoại trừ lời nói “thực” chẳng là gì trong thực tại. Bởi vì, “Thực” là danh từ trừu tượng, nó được thiết lập qua các tánh trong cơ chế tánh giác hay bằng ngộ (realization) để nói lên ý nghĩa đúng, không hão huyền (undelusive) của hiện tượng. Vì vậy sự thực (chân lý) chỉ được nhận ra bằng tánh giác hay bằng ngộ theo lối kinh nghiệm của Thiền mà thôi.  Không ai có thể thấy cụ thể thực tánh, thực tướng hiện tượng thế gian như thế nào bằng mắt thường hay bằng trí năng méo mó.

 

Vì vậy, dassana hay darśana (kiến) là cái thấy thường được gọi bằng ẩn dụ là “thấy bằng mắt huệ” hay bằng “mắt tâm”, chứ không phải thấy bằng trí năng.

Khi dassana hay darśana kết hợp với P: ñāna hay Skt: jñāna lập thành P: ñānadassana hay Skt: jñānadarśana, nó được xem là biết bằng trí tuệ, được dịch sang Việt ngữ là “tuệ tri”. Đây là phương pháp nhìn hiện tượng thế gian hay sự kiện bằng tánh giác để có cái thấy như thật về hiện tượng. Phương pháp này cũng giống như cách Như Thực Tri. Nó là điều kiện cơ bản để đạt được tâm thuần nhất, huệ và định đồng thời.

 

Ngoài ra, trong Pali cũng có từ diṭṭhi và trong Sanskrit từ dṛṣti, cả hai đều mang ý nghĩa Kiến (view). Nhưng chữ “kiến” này mang ý nghĩa quan điểm (views or stand-points) hay đức tin sai lầm (false belief). Vì thế, tác dụng chữ Kiến này (diṭṭhi) có đặc tính tạo ra những đám rối tư duy (tangles of thinking) hay những vướng mắc (entanglements). Thí dụ: kiến thủ - diṭṭhi-upādāna - grasping of view or adhering to false views; kiến điên đảo - ditthi-vipallāsa-distortion of view-point; kiến chấp - diṭṭhi-parāmāsa - adherence to view; thân kiến - sakkāya-diṭṭhi - belief in an enduring and lasting self; thiên kiến - diṭṭhi-anusaya - leaning on view; kiến lậu - diṭṭhi-āsava; kiến võng - diṭṭhi-jāla; tà kiến - micchā-diṭṭhi, v.v... Những loại kiến này đưa đến luân hồi. (Phần này sẽ được giải thích sau).

 

3.    Như thực tri kiến có nghĩa biết và thấy như thực (P: Yathābhūtañānadassana; Skt: Yathābhūta-jñānadarśana; seeing and knowing things the way as they really are, or knowledge and vision of things as they are, or the knowledge and vision according to reality). Từ nơi tánh giác sinh như thực tri kiến.

 

Đây là cái thấy của tuệ trí (insight); kết quả của quá trình tu tập thiền huệ, đạt được cái biết thầm lặng của tánh giác. Thiền gia nhận ra trạng thái ‘đang là’ của đối tượng. Nội tâm không khởi lên niệm phải là hay nên là. Nó là nền tảng của vô phân biệt trí hay vô phân biệt tâm. Nó cũng là bước thứ nhất của người đi vào Dòng Thánh.

 

Theo hệ Nguyên Thủy, khi Yathābhūta kết hợp với ñāna-dassana, Yathābhūta có nghĩa “chân tánh - true nature” hiện tượng hay sự kiện. Như vậy, Yathāabhūtañānadassana có nghĩa “hoàn toàn ngộ (nhận rõ) chân tánh hiện tượng thế gianvô thường, bất toại nguyện hay xung đột (khổ), và không thực chất tính (vô ngã) hay vô thường, khổ và vô ngã”.

Thiền Vipassanā thuộc hệ Nguyên Thủy thiết lập Như thực tri kiến thành pháp Quán thứ 16 trong 18 pháp Quán chính yếu. Người thực hành được hướng dẫn dụng công làm sao đạt được cái biết và thấy thực tướng và thực tánh hiện tượng thế gian.

 

Theo hệ Phát Triển xem như thực tri kiếnphương pháp dụng công để đạt được: thánh trí, căn bản trí (mūlajñāna) hay vô phân biệt trí, chân trí.

Hòa thượng Thích Thông Triệt

Thầy-Thông-Triệt---Toronto-2010

Send comment
Off
Telex
VNI
Your Name
Your email address
Thursday, January 16, 20259:52 AM(View: 71)
So long as they could move to the stage of observing the bareness of their mind, theirs turn into empty. Nothing left to talk. In other words, “the continuous current of mind keeps running and running” via many lifespans ends without any trace.
Wednesday, January 8, 202510:38 AM(View: 292)
As usual, the Americans celebrated the New Year of 2025 with the 136th Rose Parade in Pasadena, California on the first day of the year, at 8am PST, Wed, Jan 01, 2025.
Tuesday, January 7, 20259:17 PM(View: 202)
No matter what ups and downs in life, that line of wisdom continues flexibly adapting itself to human life, quietly expanding and offering a source of inner peace and happiness to those who get it. Those metaphors are similar to the image of the crystal spring whose water is always cool and clear and the beginning of spiritual well-beings for humans though stones and gravels are scattering in the current. Hope the next articles in the series be the placid water that I’d warmly dedicate to the Zen practitioners who gather enough conditions.
Tuesday, January 7, 202511:16 AM(View: 690)
Những dấu chân dài dài trên bờ biển Tuy Hòa hôm ấy, những dấu chân chập choạng in trên bãi cát vàng nâu, chỉ một thoáng, sóng trắng xóa tung tăng tràn vào, rồi rút lui ra biển, còn lại gì đâu, mặt cát phẳng lì, dấu chân biến mất. Nhưng kìa, ta lại bước đi, dấu chân lại in trên cát, và rồi sóng biển tràn vào, bãi cát phẳng lì, ta vẫn cứ đi, mãi mãi là người đi một mình, không để lại dấu vết.
Thursday, January 2, 20256:31 PM(View: 270)
Hôm nay ngày 29/12/2024 nhằm ngày 29/11 năm Giáp Thìn, Tưởng niệm ngày Thầy xa chúng con tròn năm năm. Chúng con đồng quy tụ về đây thành tâm đảnh lễ Phật, Tổ và Thầy một vị Ân Sư tôn kính. Lời tri ân của chúng con xin được thay thế bằng sự cố gắng tu tập theo đúng Chánh pháp. Nguyện sống sau cho xứng đáng là đệ tử của Thầy.
Thursday, December 19, 20249:32 PM(View: 525)
Do vậy, chúng ta có thể nói, tuệ trí (insight) là nền tảng của tiến trình tu tập của mình từ bước đầu, nó sẽ phát huy năng lực sâu sắc hoàn chỉnh lần tới Tuệ bát nhã (wisdom) và Tuệ bát nhã siêu vượt hơn cho tới vô biên.
Wednesday, December 11, 20241:10 PM(View: 368)
Qui ouvre les portes du paradis ou de l’enfer? C'est nous, c'est notre choix. Nous sommes maîtres de notre vie. Rappelons-nous toujours cela. Le flux de la vie est toujours le même depuis la nuit des temps. Comment nous voyons la vie? Quelles expériences retenons-nous de notre vie? Ce sont celles que nous voyons, celles que nous aimons, celles que nous voulons, celles que nous choisissons.
Tuesday, December 10, 20247:02 PM(View: 755)
Do đó nếu không có đức Phật chỉ dạy phương thức tu học (ý nghĩa thứ 2 của Pháp) thì mãi mãi hiện tượng chỉ là hiện tượng, chúng ta không thể nhận ra những bản thể (ý nghĩa thứ 1 của Pháp) ẩn tàng bên trong hiện tượng (ý nghĩa thứ 3 của Pháp).
Monday, December 9, 20249:11 PM(View: 323)
Pháp tu “Tứ Chánh Cần” gồm bốn điều cần tu tập. Hai điều nhằm đoạn trừ pháp Ác và hai điều xiển dương pháp Thiện, nên hành giả cần có tuệ trí phân biệt thế nào là Thiện pháp, thế nào là Ác pháp.
Wednesday, December 4, 20248:41 AM(View: 450)
Juste une observation pure, ouvrir les yeux et percevoir l'objet tel qu'il est. Que ce soit, en conscience verbale ou non verbale, l’esprit reste pur, calme et objectif. Il s’agit du mental vrai, dans lequel les préceptes, la contemplation, le samatha, le samadhi et la sagesse sont pleinement présents.
Sunday, December 1, 202412:43 PM(View: 322)
Erhabener, ich gebe meinen Geist auf und lebe nach dem Geist dieser Ehrwürdigen. Erhabener, obwohl wir verschiedene Körper haben, haben wir den denselben Geist.
Thursday, November 14, 20247:03 AM(View: 647)
Q.H, Đạo tràng Paris rút tỉa, sắp xếp, cắt dán lại những thuật ngữ Thiền từ các sách mà Thầy đã xuất bản - Trương Đăng Hiếu, Đạo tràng Nam Cali đánh máy, trình bày lại để làm tư liệu Anh chị thiền sinh cùng nhau tu học.
Tuesday, November 12, 20246:43 AM(View: 775)
Il est normal, naturel et raisonnable que des phénomènes apparaissent, changent et se terminent. Si nous pouvions comprendre cela, lorsque quelque chose apparaît ou disparaît, nous ne serions ni heureux ni tristes. Notre esprit est alors serein et paisible.
Sunday, November 10, 20244:35 PM(View: 630)
Đức Phật dạy khi một trong các loại tâm xuất hiện, chúng ta không làm gì khác, ngoài việc ghi nhận, quan sát, biết rõ sự hiện diện của nó mà thôi! Khi quan sát mà trong tâm không khởi lên bất cứ một ý nghĩ nào khác thì lúc đó hành giả đang trú trong tự tánh, tức tướng thật của tâm.
Sunday, November 3, 20249:06 AM(View: 589)
Wenn man den Titel dieses Artikels liest, denkt man vielleicht, dass er zu hochtrabend, umfassend und unrealistisch ist. Es stimmt, man kann dieses Thema nicht auf wenigen Seiten darstellen. Deshalb möchte ich mich heute nur auf „Die vier Grundlagen der Sympathie“ (catursaṃgrahavastu) aus buddhistischer Sichtweise beschränken und wie wir sie in unserem alltäglichen Leben umsetzen können.
Wednesday, October 23, 202411:29 AM(View: 729)
VIDEO TƯỞNG NIỆM & HÌNH ẢNH Lễ CUNG RƯỚC TRÀ TỲ Thầy THÍCH KHÔNG NHƯ về Tổ Đình Thiền Viện Tánh Không tại Tổ Đình ngày 20 THÁNG 10, 2024
Tuesday, October 15, 20245:01 PM(View: 899)
Học Phật, chúng ta thấy Ngũ căn-ngũ lực là năm yếu tố căn bản, năm yếu tố cốt lõi trên con đường tu học, mà đức Phật đã dạy cho một kẻ phàm phu mới bắt đầu, cho đến khi kết thúc trở thành bậc Vô học (A-la-hán).
Wednesday, October 9, 202411:55 AM(View: 920)
Trích từ sách Luận Giảng Vấn Đáp về THIỀN và KIẾN THỨC THỜI ĐẠI của HT Thích Thông Triệt (2014) Luận giảng số 9
Monday, October 7, 20248:46 AM(View: 1044)
Le contenu de la retraite de cette année est principalement un résumé des thèmes centraux du zen bouddhiste, de la première à la dernière étape. Chaque année, la retraite accueille de nouveaux participants, mais la plupart d'entre eux sont des méditants chevronnés, qui ont parfois 10 ou 15 ans de pratique ou plus. L'enseignement devait donc répondre aux exigences de chaque niveau d'apprentissage.
Friday, September 27, 20243:30 PM(View: 952)
Das Dharmator ist das Tor zum Eintreten, um zu lernen, zu verstehen und zu praktizieren vom Dharma. Der Dharma ist die Wahrheit, wie auch alle Phänomene der Welt. Demnach können wir uns zwei verschiedene Dinge vorstellen. Nein, sie sind nicht verschieden. Die Wahrheit wird durch jedes weltliche Phänomen offenbart, und jedes weltliche Phänomen ist die Wahrheit. Das Selbst ist auch die Wahrheit, und die Wahrheit offenbart sich auch durch das Selbst. Das Selbst ist auch die volle Wahrheit. Alle sind gleich: sie sind alle vergänglich, sie sind alle selbstlos, sie sind alle bedingt, sie sind alle leer, sie sind alle wie Illusionen, sie sind alle wie Unbeweglichkeit. Sie sind alle ungeboren, also unsterblich.
Friday, September 27, 202410:34 AM(View: 813)
Ni Sư Thích Nữ Triệt Như KHÓA TU 3 NGÀY CỦA ĐẠO TRÀNG MONTREAL tại Chùa Địa Tạng ngày 16 tháng 6, 2024 (phần 2/2)
Tuesday, September 24, 202410:34 AM(View: 1124)
Ni Sư Thích Nữ Triệt Như KHÓA TU 3 NGÀY CỦA ĐẠO TRÀNG MONTREAL tại Chùa Địa Tạng ngày 15 tháng 6, 2024 (phần 1/2)
Wednesday, September 18, 20246:59 PM(View: 1217)
VIDEO: Khóa nhập thất song ngữ Việt- Pháp tại trung tâm Vaumarcus THỤY SỸ từ 18 đến 24 /8/ 2024 / Thực hiện Kim Thoa - Giọng ca Kim Mai
Friday, September 13, 20248:36 AM(View: 1208)
La sangha de Paris a été créée très tôt, il y a environ 21 ans, la plupart des membres étaient des méditants chevronnés qui avaient étudié directement avec le Maître Fondateur. Sachant cela, chaque année, comme d'habitude, je m'y rendais avec la simple intention de leur rendre visite.
Monday, September 9, 20241:38 PM(View: 1153)
Dans l'immensité de la mer, Il existe une petite île. Au lieu de s'y réfugier, Nous nous accrochons aux écumes...
Thursday, September 5, 20247:55 PM(View: 1046)
Quán các cảm thọ, là quan sát, ghi nhận sự sanh khởi của Thọ uẩn: Đây là Thọ khổ, đây là Thọ lạc, đây là Thọ xả, đây là Thọ liên hệ vật chất, đây là Thọ không liên hệ vật chất. Niệm Thọ để thấy tính sanh diệt, vô thường, khổ, vô ngã của Thọ uẩn...
Wednesday, August 28, 202410:43 AM(View: 1108)
Những đo đạt sau cùng của Thiền sư Thích Thông Triệt đã được thực hiện vào ngày 8 và 9 tháng 6 năm 2013. Tôi tường trình ở đây một số kết quả từ những thực nghiệm này kết hợp với kỹ thuật chụp ảnh chức năng cộng hưởng từ (f-MRI) và điện não đồ (EEG, 256 channels).
Wednesday, August 21, 20248:40 AM(View: 1141)
La retraite de cette année à Toronto a réuni de nombreux méditants chevronnés y participent. Je sais qu'ils veulent simplement venir me rendre visite. Ils ont déjà maîtrisé le chemin de pratique, ayant étudié directement avec le Maître il y a de nombreuses années. C'est pourquoi, cette année, simplement un résumé de la théorie et de la pratique est présenté, afin d'aider chacun à maîtriser les étapes sans craindre de se tromper.
Monday, August 19, 202411:57 AM(View: 1013)
1- Hầu hạ cha mẹ là pháp được người hiền trí tuyên bố - Kinh BỔN PHẬN – Tăng Chi Bộ I, tr270 2.- Được chấp nhận ngang bằng với Phạm Thiên. Kinh BẰNG VỚI PHẠM THIÊN – Tăng Chi Bộ I, tr 684 3.- Làm sao trả ơn đủ cho cha mẹ - Kinh ĐẤT – Tăng Chi Bộ I, tr 118
Thursday, August 15, 20247:28 PM(View: 1022)
Le perfectionnement spirituel est un processus qui va du simple au plus difficile; la connaissance associée est peu solide au début, mais elle est progressivement transformée par l'apprentissage pour devenir de plus en plus explicite et solide.
Sunday, August 4, 202410:43 AM(View: 1066)
Bằng những kỹ thuật của Thiền, ta có khả năng điều chỉnh được bệnh tâm thể. Chỉ vì bệnh tâm thể do những trạng thái tâm rối loạn như lo âu, sợ hãi, uất cảm, giận tức, sầu khổ, trầm cảm dây dưa gây ra. Trong lúc đó mục tiêu nhắm đến của Thiền, trước tiên là điều chỉnh những rối loạn của tâm. Thiền làm cho tâm được thư giãn, thanh thản, phấn chấn, và an tịnh.
Sunday, August 4, 202410:43 AM(View: 1400)
Uất cảm được định nghĩa là sự biểu lộ trạng thái tâm lý biến động, căng thẳng, không quân bình hay không xứng hợp giữa tri giác và nhận thức về những yêu cầu (demands), nhu cầu (needs), hay khả năng đối phó trước những tình hình khẩn trương đang xảy ra.
Tuesday, July 23, 20245:00 PM(View: 1345)
VIDEO& SLIDES: Ni sư Triệt Như Giảng Đại Chúng: TỔNG KẾT NHỮNG CÁCH TẬP THIỀN ngày 13 THÁNG 7, 2024 tại THIỀN ĐƯỜNG TÁNH KHÔNG Nam Cali
69,256