HỘI THIỀN TÁNH KHÔNG TRUNG ƯƠNG

Thích Thông Triệt: Bài đọc thêm khóa Chuyên Tu Thiền Định: NHẬN THỨC

17 Tháng Giêng 20226:47 CH(Xem: 2785)

Thích Thông Triệt
Bài đọc thêm khóa Chuyên Tu Thiền Định
BDT ChuyenTu ThienDinh_Nhan Thuc

Giới thiệu bài

NHẬN THỨC

 

Người nào học thiền mà không nắm vững chủ đề nhận thức thì cuộc đời tu thiền của mình kể như buông trôi. Tại sao vậy?  Vì chủ đề nhận thức là chính nó có khả năng đưa ta tới nơi giác ngộ tối hậu; hoặc đưa ta đến nơi tỉnh ngộ, để rồi từ đó ta sẽ bước tiến lên những bậc thang giác ngộ; hoặc từ đó ta thong dong đi lại trên con đường giải thoát.  Vậy bây giờ chúng ta cần phải tiến sâu vào rừng ngôn ngữ để tìm xem toàn bộ vấn đề nhận thức thật sự chúng là gì, cấu trúc như thế nào trong não bộ con người.   Chúng đóng vai trò gì, chức năng của chúng có nhiệm vụ gì đưa chúng ta đến con đường tu tập thoát khổ, giác ngộgiải thoát.  Có bao nhiêu loại nhận thức, đặc tính của những loại nhận thức đó như thế nào?  Là người chuyên tu định, chúng ta phải có những nhận thức nào phù hợp với việc chuyên tu định.

 

Ở đây chúng ta đã nhiều ngày học về định không tầm không tứ, qua đó chúng ta đã học nhiều chiêu thức và kỹ thuật để trọng tâm nhắm đến là cắt đứt đường mòn ngôn ngữ bằng hai tiếng nói thầmkhông nói”Chúng ta đã học tới học lui nhiều lần, bây giờ nói đến cách làm chủ tâm ngôn là chúng ta biết rõ cách đó áp dụng như thế nào, tác dụng ra sao trong não bộ của chúng ta.   Như vậy là kết quả chúng ta đạt được nhận thức về sự kiệnđịnh không tầm không tứ” qua đó bây giờ nếu có ai đề cập đến hai từ “không nói” làm phương tiện để đạt đến định không tầm không tứchúng ta tin tưởng ngay người đó chỉ bày đúng cách.

 

Đây là những dòng chữ được trình bày lại cho quí vị nào ham thích học thiền mà chưa có kinh nghiệm gì về thiền được biết rõ ràng về vai tròchức năng cùng đặc tính của  nhận thức bên trong não bộ của chúng ta.  Để rồi từ đó chúng ta sẽ chọn những loại nhận thức nào phù hợp để chúng ta đi trọn con đường thiền mà không còn hối tiếc về những thú vui trần tục.  Mong là bài Nhận thức dưới đây sẽ giúp quí vị đạt được những thành quả tốt đẹp theo hoài bảo và nguyện vọng của quí vị.

NHẬN THỨC

                                        P: pajānati, parijānanā  :  cognition

                                         Pparijānāti :  to cognize

                          * Nhận thức: to cognize; to know, to understand; to perceive.

                          * Nhận ra: to recognize, to perceive, know, to be aware of.

1.  Ý NGHĨA

  1. Nhận thức có nghĩa điều gì đã được biết qua lý luận, tri giác, xét đoán, ký ức, hay trực giác. Nó là điều đã được lãnh hội, đã được hiểu biết, đã được nhớ, đã được kinh nghiệm về đối tượng hay thực tại riêng lẻ (individual events) bên ngoài giác quan.
  2. Nó không phải là sự quán xét nội tâm mà là hiểu rõ thực tại hay đối tượng bằng sự hình dung hay bằng sự gợi lên. Vì thế, trên nguyên tắc này tất cả nhận thứckinh nghiệm được điều khiển bằng bộ máy giác quan của chúng ta vào cơ chế kiến giải tổng quát, nơi đó đối tượng hay thực tại được lọc (sifted), được xếp thứ tự (ordered) và được gìn giữ (preserved) tại trung tâm ký ức dài hạn như là những dấu vết của kinh nghiệm trước.

Do đó, nhận thức luôn luôn kết hợp với ký ức của những sự kiện riêng lẻ. Ta nhận thức cái gì và cái đó đã có sẵn trong bộ nhớ của não bộ. Khi nhận thức có mặt, đối tượng hay thực tại vốn đã được hình thành trong nhận thức. Như vậy, đối tượng hay thực tại nằm bên trong nhận thức. Có nghĩa đối tượng hay thực tại nội tại (immanent) trong nhận thức. Nó và nhận thức là một. Như vậy, không thể có nhận thức mà không có đối tượng hay thực tại. Hễ có nhận thức, nhận thức đó phải có đối tượng hay thực tại.

Thí dụ :   Nếu không học về những ý nghĩa của tánh giác và không nắm vững nghĩa bình dân của tánh giác, khi có một người nào đó đề cập đến tánh giác, ta sẽ không thể nào hình dung ra được tánh giác là gì, chức năng của nó như thế nào, tác dụng của nó ra sao đối với việc phát huy trí huệ tâm linh. Còn khi đã học và đã kinh nghiệm được những phần cơ bản trong cơ chế tánh giác, khi có một người đề cập đến tánh giác, ta liền có nhận thức ngay về tánh giác như thế nào theo sự hiểu biếtkinh nghiệm của ta. Trong trường hợp này, tánh giác là sự kiện riêng lẻ của nhận thức. Bởi vì tất cả mọi người đều có nhiều kinh nghiệm theo từng sự kiện khác nhau. Như vậy, bất luận khi nào ta muốn nhớ lại bất cứ điều gì đã xảy ra trong quá khứ, sự kiện đó được gọi là sự kiện riêng lẻ. Sự kiện này được lập thành trong nhận thức của ta. Nó đã nội tại trong nhận thức. Do đó, khi muốn nhớ lại sự kiện đó, ta chỉ cần gợi lên ý muốn nhớ lại sự kiện đó, tức thì hình ảnh đó liền hiện ra trong nhận thức của ta.  Như vậy, trong nhận thức luôn luôn phải có ký ức về sự kiện. Không có ký ức về sự kiện, nhận thức không thể thành lập.

  1. Theo nghĩa rộng, ta có thể nói nhận thứchoạt động của tâm kết hợp với sự biết (knowing) và nhớ lại (remembering) điều gì đã xảy ra trong quá khứ. Thông thường hoạt động này có kết hợp với suy nghĩ. Nhưng có nhiều trường hợp hoạt động của nhận thức không cần có suy nghĩ. Đó là những hoạt động theo bản năngthói quen. Thí dụ, đi xe đạp hoạt động theo thói quen. Ta không cần suy nghĩ phải đạp như thế nào bởi vì ta đã thông thạo cách đạp từ thuở bé. Thí dụ, trời mưa to, ta cần tìm chỗ đụt mưa. Đây là hoạt động theo bản năng.  Trong hai tiến trình này, không có mặt suy nghĩ.
  2. Nhận thức là một tiến trình biết (knowing) bằng kinh nghiệm hay khả năng của tính nhận thấy (perceptivity) đối tượng hay thực tại mà ta đã trải qua kinh nghiệm. Khả năng này bao gồm tất cả cách thức như hình dung (imagining), nhận thấy (perceiving), lý luận (reasoning), suy luận (infering), xét đoán (judging), nhớ lại (remembering), và hình thành trong não (conceiving) bằng một biểu tượng nhận thức (symbolic cognition) về điều đã được biết (known) hay đã được nhận thấy (perceived) trong thời gian qua, và khả năng lượng giá/ước lượng (evaluate) về điều được nhận thấy hay đã được biết rồi như thế nào.

Đây là cách vận dụng (the handling) giác quan, trí năng hay tri thức (knowledge) để đáp ứng lại (response) điều gì do mắt thấy đối tượng hay thực tại, tức ngoại trần (external world) hay các căn (sensory organs or faculties of senses) khác tiếp xúc (contact) ngoại trần.

  1. Trên phạm vi tục đế, nhận thức là nền tảng cơ bản của ý thức trong sạch (không dính mắc). Thiếu chức năng nhận thức đúng đắn, ý thức dễ bị ảnh hưởng bởi năng lực tập khí/lậu hoặc. (Đây là trạng thái ý thức bị nhiễm ô (defiled) hay bị tình cảm (affection) chi phối). Trong trường hợp ý thức bị nhiễm ô dễ phát sinh tâm hoạt động theo bản năng, theo tình cảm (affection), và theo truyền thống thế gian (worldly traditions). Phiền nãovô minh xuất hiện trong tâm khi ý thức bị nhiễm ô hay khi nhận thức mới chưa được lập thành trong tâm.  Thí dụ như đánh giá sai lầm một người nào đó qua biểu hiện bề ngoài của  người đó.
  2. Trên phạm vi chân đế, nhận thức là nền tảng của trí tuệ Bát Nhã. Đây là trạng thái nhận thức không lời  trong 4 oai nghi. Trong đó không có tri kiến phân biệt, không có thành kiến, định kiến, và thiên kiến chủ quan. Tập khí hay lậu hoặc không tác động tâm thức trong trường hợp này. Thiếu chức năng nhận thức không lời, trí tuệ Bát Nhã không được lập thành. Chánh kiến không thể có mặt, do đó an lạc không thể xuất hiện. Ở đây, an lạc mang ý nghĩa tâm an vui, thanh thản, và hài hòa cùng với môi trường chung quanh thường trực, chứ không phải an lạc trong thời gian ngắn.
  3. 7.    Thông thường với người chưa kinh nghiệm làm chủ niệm khởi, nhận thức chỉ cho mức độ cao của tri thức hay trí năng đối với một tiến trình thông tin riêng biệt về sự kiện nào đó. Trong tiến trình này, suy nghĩ và ký ức được vận dụng (handled) để nhớ lại được (retrieve) hay nhắc lại (rehearse) dữ kiện hoặc thông tin riêng biệt nào đó mà ta đã trải qua kinh nghiệm. Trái lại, khi một người có khả năng làm chủ niệm khởi, nhận thức của họ về thực tại là sự biểu hiện của tuệ trí. Trong đó không có suy nghĩ và sự lập lại ký ức quá khứ; trái lại có sự sáng tạo nhịp nhàng tương xứng (adequate) với đối tượng hay thực tại.

 

2. Sự thành lập NHẬN THỨC

Để lập thành nhận thức, bản chất hay thực chất (essence) đối tượng hoặc thực tại đã được ý nghĩ (idea) nắm bắt (grasped) hay hiểu rõ (apprehended). Nếu không hiểu rõ thực tại hay đối tượng, ý nghĩ không thể nào nhận thức được chúng.

Trên mặt tục đế, thành phần nhận thức gồm suy nghĩ và quá trình hoạt động của tâm về thông tin do các căn tiếp thu ngoại trần (external world). Nó là nét đặc biệt của con người bình thường. Trên mặt chân đế, nó là nét đặc biệt của người đã đi vào dòng Thánh xuyên qua nhận thức không lời. Đây là nhận thức ngoài cảm giác, trong đó không có suy nghĩ.

Đối tượng của nhận thức: Cái được nhận ra đầu tiên và nhận rõ cuối cùng (definitively realized). Thứ nhất là phạm vi thực tại xuất hiện trực tiếp trong sát na đầu tiên. Thứ hai là hình thể của nó. Nó được lập thành trong sự phân biệt của tổng giác (apperception). Cái gì được nhận ra liền trong giác quan thì chỉ một sát na. Cái gì được quan niệm rõ rệt (distinctly) luôn luôn là một chuổi sát na nhận thức trong sự thiết lập trên cơ sở của giác quan nào đó.

Có hai nguồn nhận thức: Một là duy lý (radical) và một sự thực (real). Cái thứ nhất là suy diễn (the sequel), cái thứ hai siêu vượt (a transcendental one).

Cái gì được nhận thức bằng giác quan thì không bao giờ lệ thuộc nhận thức bằng suy luận. Cái gì được nhận thức bằng suy luận không bao giờ lệ thuộc vào nhận thức bằng giác quan.

Tiến trình nhận thức được lập thành do sự kết hợp của Giác quan, Đối tượng, Xúc, Thọ, Tưởng (Tưởng = tri giác + ký ức + mạng lưới khái niệm) và Hành (phản ứng của tâm + tâm sở). Đây là lúc mức độ biện luận (discursive levels) được phát triển lên cao độ. Trong đó vai trò của Não là tổ chức và kiến giải thông tin.

Thọ là nguồn cung cấp thông tin. Nó được truyền bằng lời cảm thọ, chứ không bằng cảm giác. Tiến trình nhận thức kinh nghiệm (cognitive experience) được lập thành từ trong Thọ. Thọ thanh tịnhđiều kiện cần thiết của thoát khổ, giác ngộ, và giải thoát. Thọ không thanh tịnh, khát ái theo đó sẽ khởi lên. Đầu mối của khổ, mê, và luân hồi được được thành lập dựa trên thọ. Vì thế người nào làm chủ được cảm thọ, người đó đạt được nhân chứng. Tức là tánh giác đã trở thành năng lực vững chắc. Thiền tông gọi là “Hằng sống với Tánh giác” hay “Hằng sống với Ông Chủ.”

Tưởng thành lập kinh nghiệm và hình thành chủ thể khách thể nhị nguyên (subjective-objective duality). Nhị nguyên xuất phát từ Tưởng. Mạng lưới khái niệm cũng được triển khai từ nó. Trong tiến trình lập thành nhận thức, Tưởng đóng vai chủ động. Hành và Thức được đặc tính hóa đều do Tưởng.

Từ nơi xúc, tác nhân kích thích truyền đến thọ; thọ khởi lên cái biết đầu tiên về đối tượng. Ngay nơi đây, nhận thức bắt đầu được thành lập nhưng không tinh vi.  Nó ảnh hưởng ít hơn nhận thức trí năng. Thí dụ, nếu chúng ta nói chúng ta cảm thấy nhớ nhà, chúng ta cũng muốn nói rằng chúng ta biết chúng ta đương kinh nghiệm về nổi nhớ nhà như thế nào. Nhưng thực sự cảm thọ này không rõ ràng. Do đó, đưa đến nhận thức cũng không rõ ràng.

Thí dụ khác, khi chúng ta nói: Tôi cảm thấy việc đó sai. Như thế thọ đóng một phần lờ mờ trong tiến trình nhận thức của cá nhân. Bởi vì cảm thấy chưa phải là xác nhận chắc chắn. Nó lờ mờ quá ! Vì vậy, thọ chỉ cho sự tiềm tàng tiến trình lập thành nhận thức. Tuy nhiên, nếu tiến trình lập thành nhận thức này của thọ được duy trì liên tục, năng lực nhận thức của thọ sẽ chuyển sang một hình thái khác. Đó là khả năng trực giác sẽ được phát sinh. Đây là điểm mấu chốt trong tiến trình thực hành Bát Nhã Ba La Mật, ta cần lưu ý.

Tóm lại, tất cả hoạt động nhận thức đều phải dựa vào giác quan, trí năng hay tri thức (knowledge), và thông qua Xúc (contact).  Không có xúc, hoạt động của thọ không được thành lập, và như vậy biểu tượng nhận thức (symbolic cognition) cũng không xảy ra. Trung tâm não bộ cũng không đóng được vai trò lập thành nhận thức sâu sắc hoặc thô sơ. Từ đó chúng ta thấy giác quan không những là phương tiện qua đó con người tiếp xúc ngoại giới mà trong đó con người nhận biết rằng mình đương hiện hữuĐồng thời, giác quan cũng là phương tiện qua đó con người có những kinh nghiệm nhận thức. Từ những kinh nghiệm này, giúp đỡ con người tiến đến cải tạo môi trường chung quanh, cải tạo tâm, quân bình lối sống và cao hơn nữa là phát triển trực giác hay phát triển trí tuệ bát nhãcuối cùngtự tại ra đi khi đã hết duyên với thế gian.

3. Đối tượng NHẬN THỨC

Cái gì hiện hữu là đối tượng. Như vậy, mọi vật trở thành đối tượng vì mọi vật hiện hữu. Nhưng vì hiện tượng thế gian (all things of universe) hiện hữu bằng nhau, chúng sẽ là đối tượng như nhau của tri thức chúng ta. Tất cả sẽ được nhận thứcchúng hiện hữu.

Mô thức liên quan hay sơ đồ được dùng để tổ chức thông tin, và nhận thức thiện xảo (cognitive skills) gồm những qui luật có thể được trình bày bằng biểu tượng trong hình thái:

Nếu cái này có mặt, cái kia có mặt.

Nếu cái này diệt, cái kia diệt.

Hay qua bốn chữ:  Có, Không, Sinh, Diệt.

Chú ý: - Trong lúc đó tuệ trí không lời hiện hữu mà không cần đối tượng.  Nó không luôn luôn liên kết với đối tượng hay thực tại.

Đối tượng nhận thức có 3 loại: có mặt, vắng mặt và siêu vượt (transcendent).

-       Có mặt: - Khi một đối tượng được Phật nói có mặt, nó phải được thử nghiệm bằng tri giác trực tiếp. Thí dụ, như vàng ròng (the purity of gold) được thử bằng lửa.

-       Vắng mặt: - Nếu đối tượng (vàng ròng) không được nhận ra rõ ràng chính xác bằng sự hiểu biết thông thường, nó phải được thử bằng (âm thanh). Đây là thử nghiệm bằng tri giác gián tiếp, tức bằng suy luận hay bằng trí năng sắc bén hoặc bằng sự phân tích của tánh giác. Thí dụ, như vàng ròng được thử bằng sự chạm vào đá. Ta nhận ra âm thanh trong trẽo của nó khác với âm thanh của vàng có pha trộn với kim loại khác. Ta phân biệt được giữa vàng thật và vàng giả.

-       Siêu vượt: - Nhưng nếu đối tượng siêu vượt, không thể thử bằng lửa hay chạm đá, nó phải được thử bằng sự chứng minh khác, không mâu thuẫn, không biện chứng, như hạt ngọc (a jewel) không thể thử bằng lửa và chạm vào đá, vì cả hai thứ này không thích hợp để thiết lập sự ròng  (the purity) của chính vàng. Trong trường hợp này được xem như khi chúng tabài kinh liên hệ đến những chủ đề siêu vượt, ngoài lý luận do Phật thuyết như Không, Như Thật, Chân Như, chúng ta cần phải hiểu siêu vượt là vật tối hậu như nó trong chính nó, nó không những thực mà còn thực sự trong chính nó, dù không cho một khái niệm, vì bằng chính thể (essence) của nó  nó là không khái niệm.     

 

Chú ý: - Chúng ta cần phân biệt giữa hai đối tượng siêu hình và siêu vượt.

  • Đối tượng siêu hình thì không thể nhận biết rõ ràngchắc chắn về nơi chốn, thời gian, và những phần có thể cảm giác được mà những đối tượng đó sở hữu. Thí dụ, các cảnh giới của chư Phật Mười Phương, của Tây Phương Cực Lạc, của các Cõi Trời...
  • Đối tượng siêu vượt thì có thể nhận biết chắc chắnrõ ràng như chúng có mặt trong mỗi phần nhỏ của nhận thức chúng ta, vì chúng là  điều kiện cần của tính có thể của nhận thức kinh nghiệm nói chung, nhưng chính chúng không thể tượng trưng được trong hình ảnh cảm giác, chúng bất khả đắc bằng tri thức. Trái lại, chúng khả đắc bằng trí tuệ Bát Nhã. Như vậy, vật siêu hình là những khái niệm được thành lập, nhưng chúng là huyễn hóa. Siêu vượt, là vật tối hậu như nó trong chính nó, nó không những thực mà còn thực sự trong chính nó, dù không cho một khái niệm, vì bằng chính thực chất (essence) của nó  nó là không khái niệm, ngoài ngôn ngữ biện chứng (dialectic language).

    

4.  ĐẶC TÍNH

  1. Nhận thức luôn luôn liên kết với đối tượng hay thực tại (realities). Không có đối tượng hay thực tại, nhận thức không thể thành lập, dù thực tại đó thuộc phạm vi siêu vượt hay vượt trội  (transcendental aspects) như Chân Như hay Không. Do đó, đặc tính của nhận thứctri giác về thực tạihình dung bên trong về thực tại.
  2. Trên cơ sở này, đặc tính của nhận thứcliên quan mật thiết đến điều ta kinh nghiệm và sự dùng ngôn ngữ hay không dùng ngôn ngữ trong tiến trình biết. Nếu dùng ngôn ngữ để biết, nhận thức đó thuộc lãnh vực trí năng. Nếu dùng thầm lặng biết, nhận thức đó thuộc lãnh vực giác quan tri giác (sense-perception).
  3. Bằng trí năngnhận thức gián tiếp, thông qua suy luận. Đây là suy luận nhận thức (inferential cogniton), cũng được gọi là tự ý thức. Bằng giác quan tri giácnhận thức trực tiếp, thông qua cái biết không lời, thuộc khu vực Kiến giải tổng quát. Được gọi là tự nhận thức hay tự biết-self-awareness, trong đó không có người biết.
  4. Tất cả nhận thức đều là kinh nghiệm. Kinh nghiệm này được lập thành do thông tin hay đối tượng được thu vào từ bộ máy giác quan rồi truyền vào não bộ. Nơi đây, thông tin được lọc, được phân loại, được xếp thứ tự, và được gìn giữ  tại các trung tâm ký ức. Sau đó thông tin hay đối tượng được lập thành từ dấu vết của kinh nghiệm trong tâm. Nhận thức được hình thành từ cơ sở này.

Thí dụ, khi học lái xe, ta phải hiểu rõ cách lái xe như thế nào. Cũng như khi học về Chân như, ta phải hiểu rõ bên ngoài và bên trong Chân như ra sao. Nếu không hiểu rõ, tức ký ức sự kiện riêng lẻ (memory of individual facts/events) chưa được ghi lại thành dấu vết trong tâm.

Vì thế, đặc tính nhận thức không phải là sự xem xét nội tâm, không phải tiếp thu hình ảnh nội tâm, cũng không phải xoay cái biết (awareness) vào bên trong (quen gọi là xoay ánh sáng trí tuệ) để nhìn tâm mà chính là hiểu rõ thực tại bên ngoài hay hiểu rõ chính bên trong thực tại đó như thế nào.

5. CHỨC NĂNG

Chức năng nhận thức có thể được đánh giá (assessed) như sau:

  1. Khả năng: a) học những điều khéo léo cần thiết trong các ngành nghề, kể cả sự học Thiền; b) giải quyết nhiều vấn đề giao tế và tổ chức trong xã hội hay trong tự viện; c) suy nghĩ trừu tượng, d) lý luận, và e) xét đoán tất cả vấn đề trong phạm vi sinh hoạt thế tục hay tâm linh;
  2. Khả năng duy trì và nhớ những sự kiện đã được học hay đã kinh nghiệm;
  3. Khả năng toán học (nhớ công thức) và những hình thái khác của biểu tượng thao tác (symbol manipulation), như đánh võ, đi xe đạp, lái máy bay, lái xe, đánh bóng bàn, thiền hành, thiền tọa v.v...
  4. Kiểm soát những phản ứngthái độ, như các oai nghi đi, đứng, nằm, ngồi, ăn uống, tiếp chuyện, lễ nghi, v.v...;
  5. Ngôn ngữ dùng (trong trường hợp nào cho thích hợp với đối tượng và môi trường) và sự lãnh hội các loại ngôn ngữ khác;
  6. Chú ý đến công việc hay đối tượng, kể cả chú ý trống rỗng, nhìn lướt hay nhìn chằm chằm;
  7. Tri giác đối tượng qua những chủ đề hay sự kiện hoặc thực tại;  
  8. Thói quen thực hành theo thiện xảo (praxis). Thí dụ, viết, vẽ, lái xe, nhập định, xuất định, thiền hành, đo điện não đồ...theo kinh nghiệm riêng biệt qua các chiêu thức, khác với mớ lý thuyết mà ta đã học.

Chú ý: - Người mang nhiều thành kiếnchấp trước tuy cũng có nhận thức nhưng nhận thức đó không có chánh trí. Ngoài ra, chứng mất trí (dementia) tuy ý thức chưa mờ, nhưng mất chức năng nhận thức trong vòng vài ba tháng hoặc lâu hơn nữa.

6. BA LOẠI NHẬN THỨC ( hay BA NGUỒN NHẬN THỨC )

 1- Nhận thức bằng giác quan: (Phát triển thân) - Cái gì được nhận thức bằng giác quan thì không bao giờ là nhận thức bằng suy luận.

Thí dụ, khi lửa được nhận thức bằng giác quan thấy (the sense of vision), đó là lửa có mặt trong tầm nhìn của mắt. Lửa được nhận thức trực tiếp từ nơi mắt, không qua suy luận của trí năng. Trong trường hợp này đối với các nhà duy thực (realist), giác quan đóng vai trò nhận thức trực tiếp, họ gọi giác quan này là giác quan tri giác (sense-perception).  Khoa học gọi là vùng Kiến giải Tổng quát.

Đặc tính của giác quan tri giác chỉ nhận thức bằng vật trống rỗng (the bare thing). Trong đó vật chỉ chính nó mà thôi (thing-in-itself). Trong đó không có tất cả những liên quan đến cái khác hay những đặc tính chung của vật. Thí dụ, thấy lửa; biết có lửa. Thấy khói; biết có khói. Nói theo ngôn ngữ Thiền tông, đó là tự tướng của vật được nhận thức bằng tánh thấy.  Ta không thể thêm điều gì nữa về đối tượng.  Trên cơ sở này, với nhận thức bằng giác quan tri giác con người có khả năng đạt được trực giác trí hay tuệ trí.

 2- Nhận thức bằng suy luận (Phát triển tâm) - Cái gì được nhận thức bằng suy luận thì không bao giờ là nhận thức bằng giác quanThí dụ, khi thấy khói, khói là đối tượng trong tầm nhìn của mắt, nhưng qua thấy khói, ta suy luận có lửa.  Lửa được nói lên là nhận thức bằng suy luận chứ không bằng giác quan tri giác.  Vì mắt không thấy lửa mà chỉ thấy khói.  Lửa ngoài tầm nhìn của mắt. Lửa được nhận thức bằng suy luận. Trong suy luận hình ảnh đối tượng được nhận thức gián tiếp, có nghĩa mơ hồ (vaguely) hay trừu tượng (abstractly), bởi vì ta chỉ nhận thức qua dấu hiệu của nó là khói chứ không thấy tận mắt qua dấu hiệu của nó là lửa. Trong trường hợp này, trí năng đóng vai trò suy luận nhận thức.  Do đó, vật chính nó được nhận thức bằng giác quan,  nhưng khi có mặt trí năng thì những đặc tính riêng hay đặc tính chung của vật được lập thành bằng sự tưởng tượng hay tô vẽ của trí năng.  Vật không còn được thể hiện theo tự tướng của nó nữa.

Cho nên, cái gì được nhận thức bằng suy luậnnhận thức của trí năng. Cái gì được nhận thức bằng trí năng thì không bao giờ là nguồn cội của trí tuệ. Trong nhận thức này luôn luôn chứa tư tưởng nhị nguyên (dualistic thoughts); thành kiến, định kiếnquan niệm chủ quan thường trực xuất hiện trong nhận thức suy luận.

 3- Nhận thức ngoài cảm giác(Phát triển tâm linh - Hiểu biết hay biết như thực là loại nhận thức ngoài cảm giác (extra-sensory).  Hiểu biết này được có là do thọ trong sạch hay tâm không dính mắc đối tượng tạo nên. Trong tiến trình cảm thọ này không có thành kiến, định kiếnthiên kiến chủ quan xuất hiện. Người có kinh nghiệm biết thầm lặng -tacit knowing or tacit awareness- hay biết thanh thản -serene awareness- là người có nhận thức ngoài cảm giácNhận thức này là nhận thức không lời (worldless cogniton), nó không dựa vào trí năngdựa vào tánh biết (Hệ NguyênThủy gọi là thức tri, thiền tông gọi là Phật Tánh) cơ sở của nó là vùng Precuneus.

Trong Phật giáo Nguyên Thủy, Nhận thức ngoài cảm giác, nhận thức trong sạch hay nhận thức tâm linh là nền tảng của Vô sanh trí. Trong Phật giáo Phát Triển, nhận thức tâm linh là nền tảng của Trí tuệ Bát Nhã. Thuật ngữ Thiền tông gọi nó là Tánh giác.  Tất cả người thường tuy cũng có năng lực này, nhưng họ không nhận ra nó vì họ chưa được hướng dẫn hay chưa có kinh nghiệm thực sự về nó.  Do đó, năng lực này được xem là năng lực ngoại lệ.  Nhận thức trong sạch chính là năng lực của Thọ thanh tịnh.  Chỉ có người thực sự bước vào dòng Thánh mới kinh nghiệm được Thọ thanh tịnh.  Người còn nhiều khát ái,  nhiều vướng mắc,  không bao giờ kinh nghiệm được nhận thức ngoài cảm giác.  Khi tâm bị ngũ chướng đè nặngnhận thức trong sạch không thể có. Từ đó, trí huệ không làm sao tự phát. Vì vậy, năng lực nhận thức ngoài cảm giác luôn luôn là nền tảng của trí tuệ bát nhã hay trí tuệ tâm linh.  Tức là thông qua giác quan tiếp xúc đối tượng bất chợt trong đầu vị đó lóe lên một kiến giải đặc biệt nào đó mà không có liên quan gì đến thực tại của vị ấy. Nó cũng gọi là trực thức hay trực nhận.

7. TÁC DỤNG

Tất cả hành động có kết quả của con người, bao gồm trong việc đời cũng như việc đạo, đều được đặt trên chánh trí (right knowledge). Thiếu chánh trí, con người không làm sao đạt được kết quả điều mình mong đợi.

Muốn có chánh trí, ta cần có nhận thức đúng về đối tượng cũng như sự việc liên hệ đến hoạt động của ta.  Chính nhận thức đúng giúp ta có quyết tâm hay xét đoán những vấn đề khó khăn được dễ dàng hơn.  Như vậy, nhận thức đúng là nhận thức đưa đến thành côngNhận thức sai lầm thì đưa đến không thành công điều gì hay đưa đến thất bại. Vì nhận thức sai lầm đưa đến lạc lối, lạc đường (astray), nó làm cho chúng ta có những hành động hay việc làm sai lầm.  Do đó mục tiêu nhắm đến hay những điều chúng ta mong đợimong chờ không làm sao đạt được.

Thí dụ: bắt chước quí vị tăng ni tu thiền nhập thất, một người không có vốn liếng pháp học về thiền cũng nhập thất như họ.  Đây là nhận thức sai lầm.  Vì ta không được trang bị pháp học, pháp hành, ta biết gì để ứng dụng khi nhập thất ?

Nguồn của chánh trí là không mâu thuẫn với kinh nghiệm. Vì người có chánh trí là người đã có kinh nghiệm về điều họ đã trải qua.  Họ biết làm như thế sẽ thành công.  Họ không phải là người mò mẫm mà là người đã trải qua kinh nghiệmLời nói của họ chân thực.  Mỗi nhận thức của họ đều không mâu thuẫn với kinh nghiệm, vì nó là nguyên nhân của thành công với hành động có mục đích.  Cho nên, trên phương diện tâm linh, chánh trí đưa đến đạt được mục tiêu, tà trí đưa đến thất bại tâm linhChánh trí không phải là nhận thức cái Tuyệt đối, nhận thức sự vật như thực, hay tri thức thực tại hay không thực tại của ngoại trần.  Thông thường, con người hằng đeo đuổi các đối tượng bên ngoài, giác quan của họ luôn luôn bị dính mắc với chúng.  Họ bị chúng chinh phụcTà trí theo đó xuất hiện trong tâm họ.

Thực tại tuyệt đối chỉ có nhận thức được bằng trí tuệ bát nhã. Trong đó không có luận lý hợp lý theo luận lý học thế gianNhận thức là một nhận thức mới, nhận thức của đối tượng chưa được nhận thức.  Nó là cái nhận thức lúc đầu, cái loé sáng biết đầu tiên khi ánh sáng của nhận thức được rực lên (kindled). Đây là cái nhận thức không lời (wordless cogniton). Nhận thức này được liên tục kéo dài, cái biết (awareness) trở nên vững chắclâu dài (enduring).  Nguồn của chánh trí xuất phát từ mỗi nhận thức. Nguồn của trí tuệ tâm linh được đặt trên sự lâu dài của nhận thức (enduring cognition).  Ký ức, tình thương, sân hận là những đối tượng đã được nhận thức rồi, chúng không phải là nguồn của chánh tríYếu tố nhận thức của tâm chúng ta được giới hạn ngay lúc chúng ta đạt được cái lóe sáng biết đầu tiên về đối tượng trước mặt.  Sau đó, đối tượng được lập thành hình thể, hay hình ảnh.  Nó là sự nhận ra (recogniton) chứ không phải là nhận thức.

Thí dụ:

-       Trong nhận thức sự vật như thực, tác dụng của nhận thức này đưa đến tâm trong sạchthuần nhất. Tâm chỉ và tâm định được đặt trên cơ sở nhận thức sự vật như thực.

-       Trong nhận thức không lời, đưa đến phát triển trực giác. Nó là nền tảng của sự thành tựu trí tuệ Bát Nhã. Trong cái lóe sáng biết đầu tiên, nó đã có mặt.

-       Trong nhận thức đúng đối tượng đưa đến chánh trí. Đó là biết (knowledge) không mâu thuẫn với kinh nghiệm.

Tất cả hành động có kết quả của con người, bao gồm trong việc đời cũng như việc đạo, đều được đặt trên chánh trí (right knowledge). Thiếu chánh trí, con người không làm sao đạt được kết quả điều mình mong đợi.  Người bình thường tuy cũng có nhận thức nhưng không khai triển được tiềm năng giác ngộ thông qua nhận thức đặc biệt của họ. Trái lại, người bắt đầu đi vào dòng Thánh có khả năng khai triển nhận thức không lời của họ để thành tựu trí tuệ Bát NhãNhận thức không lời là cơ sở tạo ra tiềm năng giác ngộ từ nơi vùng Precuneus.

*  Loài thú tuy cũng có nhận thức nhưng chúng sống theo bản năng nên không có nhận thức sâu sắc và rộng lớn bằng loài người. Người sống theo bản năng hay sống theo thói quen cũng không khai triển được nhận thức sâu sắc và rộng lớn. 

Kết luận:

Muốn ứng dụng những chủ đề lớn trong hệ thống kinh Bát Nhã như Không, Chân Như, Huyễn, người thực hành cần được trang bị lý luận và các kỹ thuật thực hành.

Bài Nhận Thức này cốt yếu là nhắm hướng dẫn quí vị thiền sinh hiểu biết rõ ràng về chức năng của nhận thức  để khi đương đầu hay đối diện với tình huống dù khó khăn đến mấy chúng ta cũng có thể mở ra con đường tiến thẳng đến nơi giác ngộgiải thoátMục đích yêu cầu của bài pháp này là nhắm chỉ rõ cách thực hành để làm sao cho tất cả quí vị đều biết hướng dụng công mà ko sợ bị “tẩu hỏa nhập ma”.   Để cuối cùng tất cả quí vị đều có nhận thức biết không lời.  

Nhận Thứcphương tiện cơ bản nền tảng, giúp người thực hành có khả năng tiến sâu vào những lãnh vực trừu tượng (abstract) và siêu vượt (transcendental aspects) của Bát Nhã. Thiếu nắm vững lý luận nhận thức và không thiết lập được nhận thức về đối tượng hay thực tại, thì mục tiêu của Thiền khó có thể thành tựu. Vì thế, mong tất cả quí vị nắm vững bài Nhận Thức này để thực hành các chủ đề lớn trong tu định như Không tầm Không Tứ Định, Chánh Niệm Tỉnh Giác Định, và cuối cùng là định Atakkāvacara -  Phật gọi là xả niệm thanh tịnh.

________________________________

Các BÀI DỌC THÊM Khóa Chuyên Tu Thiền Định tập trung tại LINK:
https://www.tanhkhong.org/p1551/bai-doc-them-khoa-chuyen-tu-thien-dinh

Monday, January 17, 20226:47 PM(View: 61)
Người nào học thiền mà không nắm vững chủ đề nhận thức thì cuộc đời tu thiền của mình kể như buông trôi.
Monday, October 26, 20208:44 PM(View: 2289)
Định có tầm không tứ chúng ta phải dùng niệm nói thầm hai từ Không Nói để chúng ta cắt đứt được sự đối thoại thầm lặng trong não chúng ta.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
14 Tháng Tư 20245:07 CH(Xem: 238)
Cảnh sanh khởi, biến đổi rồi hoại diệt của thế gian là tự nhiên, là bình thường, là hợp tình hợp lý. Nếu hiểu thật sự điều này thì khi cái gì đó sanh ra hay diệt mất, ta không vui cũng không buồn. Bây giờ tâm bình an, thanh thản, bây giờ mới thấy nơi nào cũng là ngôi nhà xưa của mình, cảnh nào cũng hiển lộ những chân lý vô thường, duyên sinh, vô ngã, bản thể trống không… Pháp âm của Phật vang rền khắp hư không, như vậy cõi này đang là cõi Phật đó, bạn hiền ơi.
17 Tháng Tư 20242:27 CH(Xem: 120)
Tu tập theo đạo Phật không phải để sở hữu được điều gì, mà thực ra là để buông xả không bám víu với bất kỳ những gì ở trên đời... mà chỉ nhận biết rõ ràng pháp đến rồi đi, đó là điều tự nhiên của vạn pháp. Và sự đến đi đó, là bài học “sinh diệt, vô thường, vô ngã” giúp cho chúng ta không bị dày vò phiền não khi nghịch cảnh đến, hoặc quá đắm chìm mê say hưởng khoái lạc, khi duyên thuận lợi đến với mình, mà phải sống trong trung đạo vừa phải.
16 Tháng Tư 202411:33 SA(Xem: 91)
Therefore, with our senses, we feel the “what-is.” It is the “As-Is Truth,” “Yathābhūta,” which is akin to the Truth, but it is not truly stable and permanent. It is also the “As-Is Delusion,” akin to a dream... The “As-Is Truth,” is the phenomena perceived by human senses and the latter, the “As-Is Delusion,” the Nature recognized by the Prajña Wisdom.
06 Tháng Tư 202410:03 SA(Xem: 195)
Nur einfach die Augen aufmachen und das Objekt wahrnehmen, wie es ist, mit verbalem oder nonverbalem Bewusstsein, der Geist ist rein, ruhig und objektiv. Das ist der Naturgeist. Gebote, Kontemplation, Samatha, Samadhi und Weisheit sind vollständig in ihm vorhanden.
06 Tháng Tư 20248:52 SA(Xem: 810)
... chiếc “xe một số” chính là cái Biết, nó đưa ta từ bước đầu tới bước cuối con đường. Thực ra, có con đường nào đâu, vì cái biết là của mình, từ đầu nó vẫn trong sạch, tĩnh lặng, khách quan và chiếu sáng. Bạn hiền ơi, cứ lấy viên ngọc đó ra mà xài, hồn nhiên, đừng lăng xăng tạo tác gì thêm nữa.
05 Tháng Tư 20246:46 CH(Xem: 208)
Bài Luận giảng này cho chúng ta biết rằng: điểm quan trọng bậc nhất của Thiền chỉ là làm chủ tâm ngôn. Không làm chủ được tâm ngôn, dù chỉ trong vòng vài giây đồng hồ, đường Thiền của ta sẽ đến nơi bế tắc.
04 Tháng Tư 20241:07 CH(Xem: 290)
In Spring 1929, we cheered our Master’s coming into life. In Spring 1982, we celebrated the glory of our Master’s Recognition of the Path. In Winter 2019, he left us... But with those, this morning, under warm sunlight, while relishing the spring flowers, how come it seems someone’s eyes are full in tear.
29 Tháng Ba 20247:58 CH(Xem: 475)
Vậy qua giác quan, ta thấy “cái đang là”, đó là thấy Như Thực, giống như thiệt, chứ không phải thiệt có bền vững, thường hằng, mà đó cũng là “cái Như Huyễn”, như mộng mà thôi. ...cái Như Thực là thấy hiện tượng qua giác quan, còn cái Như Huyễn là thấy bản thể qua trí tuệ bát nhã.
29 Tháng Ba 20247:35 SA(Xem: 321)
5 LÝ DO chúng tôi chọn chủ đề: LUẬN GIẢNG VẤN ĐÁP THIỀN VÀ KIẾN THỨC THỜI ĐẠI
27 Tháng Ba 20246:45 SA(Xem: 323)
Heute, ein Frühlingsmorgen, blauer Himmel, weiße Wolken, warme Sonne und volle Kirschblüten vor dem Hof ​​des Sunyata Zentrums, möchte ich euch einen Meditations-Laib: Gebote, Samadhi und Weisheit anbieten, der aus dem reinen Wissen eines Naturgeistes gemacht wurde.
25 Tháng Ba 20249:43 SA(Xem: 345)
La nature du monde est vide, est vacuité. Ce n'est juste qu'une illusion. Cette sagesse nous donne la capacité de séparer notre mental de tout attachement au monde. Ce n’est qu’alors que l’on peut demeurer dans la conscience "Ainsi". Lorsque nous possédons la sagesse et la perspicacité pour reconnaître la nature du monde, alors il n’y a plus de chemin, plus besoin de dharma, plus de portes à ouvrir. Nous vivons vraiment dans notre maison spirituelle qui existe depuis toujours en nous.
24 Tháng Ba 20245:02 CH(Xem: 520)
Mùa xuân năm 1929, mừng Thầy đến, mùa xuân năm 1982, mừng Thầy thấy rõ con đường, mùa đông năm 2019, Thầy đi.... ...Biết vậy, mà sao sáng nay, trong nắng ấm, ngắm hoa xuân, lại dường như có ai rơi nước mắt.
24 Tháng Ba 20244:44 CH(Xem: 470)
VIDEO Ni sư Triệt Như Giảng Đại Chúng: CON ĐƯỜNG GIỚI QUÁN ĐỊNH TUỆ ngày 16 tháng 3 năm 2024 tại THIỀN ĐƯỜNG TÁNH KHÔNG nam Cali
24 Tháng Ba 202410:27 SA(Xem: 333)
Trích từ sách Luận Giảng Vấn Đáp về THIỀN và KIẾN THỨC THỜI ĐẠI của HT Thích Thông Triệt (2014) - Luận giảng số 1 GIỚI THIỆU CÁCH THỨC TẠO LUẬN
17 Tháng Ba 20243:11 CH(Xem: 425)
Trích từ sách Luận Giảng Vấn Đáp về THIỀN và KIẾN THỨC THỜI ĐẠI của HT Thích Thông Triệt (2014) - Lời Tựa
17 Tháng Ba 20242:16 CH(Xem: 595)
Chỉ là đơn thuần, mở mắt ra nhìn ngắm, cảnh thế nào nhận biết y như vậy, diễn nói hay thầm lặng, tâm đều trong sạch, tĩnh lặng, khách quan. Đó là chân tâm, Giới, Quán, Chỉ, Định, Tuệ đầy đủ
13 Tháng Ba 20249:44 SA(Xem: 464)
Unzählige Jahre habe ich törichterweise nach einem „Märchenland im Jenseits des Nebels“ gesucht. Wie oft bin ich dem Nebel begegnet und wie oft habe ich davon geträumt, ein Märchenland zu finden. Am Ende meines Lebens wurde es mir klar, dass das wahre Märchenland nirgendwo draußen ist, sondern es ist in mir.
13 Tháng Ba 20249:16 SA(Xem: 429)
Les quatre niveaux du jhana (état mental), à travers lesquels le Bouddha a réalisé la Triple Connaissance, sont également connus comme “les quatre niveaux du Samadhi”. C’est ainsi que nous comprenons que le Samadhi joue un rôle important dans le Zen bouddhiste. Il est le passage obligé pour l'exploration du vaste firmament de la Sagesse transcendante.
10 Tháng Ba 20244:31 CH(Xem: 727)
Các bạn hiền ơi, sáng nay, một buổi sáng mùa xuân, nắng ấm, hoa mai đang nở rộ trước sân Tổ đình, trời xanh và mây trắng. xin dâng tặng cho bạn ổ bánh Thiền Giới Định Tuệ, làm bằng cái Biết trong sáng của chân tâm.
06 Tháng Ba 202410:36 SA(Xem: 660)
VIDEO Ni sư Triệt Như Giảng Đại Chúng: VẤN ĐỀ SINH TỬ ngày 17 tháng 2 năm 2024 tại THIỀN ĐƯỜNG TÁNH KHÔNG nam Cali
06 Tháng Ba 202410:20 SA(Xem: 442)
Nghĩa chữ “tu” không chỉ là sửa đổi hành động từ xấu sang tốt, mà chữ tu còn mang ý nghĩa là “thực tập” hay “hành trì” một pháp môn nào đó.
05 Tháng Ba 20242:20 CH(Xem: 660)
Research works from Dr. Michael Erb on the mapping of the brain of Master Reverend Thích Thông Triệt Những đo đạc sau cùng của Thiền sư Thích Thông Triệt đã được thực hiện vào ngày 8 và 9 tháng 6 năm 2013. Tôi tường trình ở đây một số kết quả từ những thực nghiệm này kết hợp với kỹ thuật chụp ảnh chức năng cộng hưởng từ (f-MRI) và điện não đồ (EEG, 256 channels).
28 Tháng Hai 20244:27 CH(Xem: 624)
VIDEO: Ni sư Triệt Như Giảng Đại Chúng: GẶP GỠ ĐẦU NĂM mùng 3 TẾT Giáp Thìn 2024 tại TỔ ĐÌNH TÁNH KHÔNG
27 Tháng Hai 20249:03 SA(Xem: 458)
La Sagesse, ici je veux dire le Vipassanā, la Vue profonde. Dans les limites de cet article, je passerai en revue le Satipaṭṭhāna sutta, Le récit de l’attention vigilante, extrait de la corbeille Nikāya. Bien que les gens disent toujours "Contemplation des Quatre Fondements de l’attention" et que, dans le sutra, il est aussi dit “Contempler le corps” (Kāya-anupassanā) etc. De nos jours les vénérables moines classent le sutra “Le récit de l’attention vigilante” dans le Vipassanā c'est à dire appartenant à la Sagesse. Donc, dans cet article, je le définirai aussi temporairement comme la Sagesse, c'est-à-dire utiliser la sagesse pour pratiquer
24 Tháng Hai 20249:13 CH(Xem: 603)
Tâm trong đạo Phật được giảng giải rất chi tiết tùy theo các tông phái trong đạo Phật. Bài viết này chỉ nhằm đáp ứng cho các Phật tử mới bắt đầu học Phật, giúp các bạn nhận ra tâm là gì?
22 Tháng Hai 20247:52 SA(Xem: 769)
Khi biết mà không dính với tất cả những pháp thế gian hạnh phúc hay phiền lụy, thì ngay khi đó tâm trở về trạng thái tĩnh lặng, cái biết tự tánh sẽ hiển lộ, đây là cái biết của trực giác. Cái biết trực giác này sẽ phát huy đến vô lượng, đưa người thực hành vượt qua bể khổ đến bờ giác ngộ giải thoát...
20 Tháng Hai 20243:56 CH(Xem: 739)
Lời ngõ: Loạt bài viết về các tầng Thiền của Đức Phật được trích từ quyển sách "Tiến Trình Tu Chứng Của Đức Phật" do Hòa Thượng Thích Thông Triệt biên soạn đã được phát hành lần đầu tiên năm 2005 và tái bản lần thứ nhì năm 2007. Mục đích của loạt bài viết này nhằm giúp cho Thiền sinh ôn lại phương thức thực hành đúng như lời Phật dạy. Kỳ này bài viết chỉ rõ phương thức thực hành để chuyển đổi từ tâm phàm phu sang tâm bậc thánh. Nếu không nắm rõ kỹ thuật thực hành thì xem như đường tu bị bế tắc đành phải chờ một duyên lành vậy.
15 Tháng Hai 20247:20 SA(Xem: 921)
VIDEO: Ni sư Triệt Như Giảng Đại Chúng: MÓN QUÀ ĐẦU NĂM ngày mùng 2 TẾT Giáp Thìn 2024 tại THIỀN ĐƯỜNG TÁNH KHÔNG nam Cali
14 Tháng Hai 20243:55 CH(Xem: 612)
A propos de la contemplation, il existe plusieurs variantes. Dans ce qui suit, je n’aborderai que l'Anupassanā, qui consiste généralement à contempler les phénomènes du monde de manière continue pour en saisir leur nature ou leurs caractéristiques qui sont: l’impermanence, la souffrance, le non-soi.
14 Tháng Hai 20243:29 CH(Xem: 600)
Nach der erlangten Erleuchtung ging der Buddha zum Wildpark, um den fünf Brüdern des Ehrwürdigen Kondanna die ersten Dharma-Sutras zu predigen, darunter das Sutra *Die Merkmale des Nicht-Ich*
09 Tháng Hai 20249:04 SA(Xem: 568)
So geht ein Frühling nie zu Ende. Auch wenn er einen anderen Namen wie Sommer, Herbst oder Winter hat, ist er immer der Frühling im Geist eines jeden. Wenn wir ihn Frühling nennen, ist er der Frühling. Wenn wir ihn nicht Frühling benennen, gibt es dann keinen Frühling, und wenn es keinen Frühling gibt, gibt es keine Jahreszeiten.
06 Tháng Hai 20243:13 CH(Xem: 652)
Mùa xuân cũng vậy, không bao giờ chấm dứt, trong tâm mỗi người. Dù cho nó có tên là hạ, thu, hay đông đi nữa, nó cũng là xuân. Khi mình gọi là Xuân thì là Xuân của mình. Khi mình không gọi gì hết thì không có mình, cũng không có xuân, và cả thế gian cũng biến mất.
31 Tháng Giêng 202411:00 SA(Xem: 583)
Người sống trong Mùa Xuân Xuất Thế Gian này tâm trạng luôn vô tư, bình thản, an vui, tự tại trong mỗi sát-na. Trạng thái đó tương tục mãi từ sát-na này đến sát-na khác, và cứ thế mà hưởng mùa Xuân bất tận vĩnh cửu.
29 Tháng Giêng 20248:11 CH(Xem: 903)
Lời ngõ: Loạt bài viết về các tầng Thiền của Đức Phật được trích từ quyển sách "Tiến Trình Tu Chứng Của Đức Phật" do Hòa Thượng Thích Thông Triệt biên soạn; đã được phát hành lần đầu tiên năm 2005 và tái bản lần thứ nhì năm 2007. Mục đích của loạt bài viết này nhằm giúp cho Thiền sinh ôn lại phương thức thực hành đúng như lời Phật dạy. BBT
20 Tháng Giêng 20249:38 CH(Xem: 683)
Am 24.12 kamen eine Schülerin und ihre Familie mit einem Obstkorb zu Sunyata Chan Nhu zu Besuch. In der Nacht hat sie mir über ihr stressiges Leben erzählt: dem vielseitigen Berufsleben, den ganzen Tag nur den Bildschirm anzustarren, dann die lange, lästige Besprechung in der Firma, so dass sie die Stimme des Arbeitskollegen noch im Ohr hörte, als sie zu Hause ankam. Als ich das gehört habe, war ich traurig. Ist das Leben draußen so schwer?
16 Tháng Giêng 202412:47 CH(Xem: 968)
Ngoài cái chớp mắt “đang là”, tất cả thân, tâm và cảnh là của quá khứ, của tương lai hay của hiện tại, chúng nó chỉ là ảo ảnh, ảo giác trong ký ức, hay trong tưởng tượng mà thôi. Hoa đào sẽ nở mỗi mùa xuân, nhưng đóa hoa năm nay đâu phải là đóa hoa năm trước. Người ngắm hoa đào bây giờ cũng không phải là người ngắm hoa năm cũ.
16 Tháng Giêng 202410:39 SA(Xem: 693)
Les cinq entraves sont les cinq liens qui enchaînent l'esprit humain dans les afflictions, créant ainsi de nombreux karmas qui le conduisent vers le samsara. Ces obstacles obstruent notre clarté d'esprit de telle manière que nous sommes embrouillés par l'ignorance et incapables de s'éveiller.
09 Tháng Giêng 20247:40 CH(Xem: 1330)
Đầu mối của thoát khổ, giác ngộ, và giải thoát bắt đầu từ điểm làm chủ sự suy nghĩ. Không làm chủ được sự suy nghĩ, phiền não và khổ đau vẫn dai dẳng theo ta; “lửa tam độc vẫn cháy;” bệnh tâm thể khó tránh; yên vui trong gia đình khó thành tựu; an lạc và hài hòa trong cuộc sống bình thường không thể nào có; Sơ Thiền, cũng không thể nào kinh nghiệm được.
03 Tháng Giêng 20249:34 SA(Xem: 815)
Le coeur est le noyau, la quintessence. Il ne se trouve pas à l'extérieur. Si on le compare avec un arbre, ce ne sont ni les feuilles ni les branches, etc... mais le noyau de l'arbre. Ce coeur doit être condensé pour être appelé le coeur. Cependant, dans le bouddhisme, il existe de nombreux coeurs ou des principes fondamentaux. Pourquoi?
02 Tháng Giêng 202410:36 SA(Xem: 1096)
Các em Thiền sinh đã tâm tình về cuộc sống của mình, cũng chịu nhiều áp lực: từ công việc quá phức tạp, bận rộn, suốt ngày dán mắt trên computer, rồi những giờ hội họp nặng nề dài đằng đẵng trong sở làm. Lúc trở về nhà lại còn mang theo lời nói, cử chỉ, thái độ không thân thiện của các nhân viên của mình. Lắng nghe các em tâm sự, mình thấy xót xa. Cuộc đời vất vả tới như vậy sao?
02 Tháng Giêng 202410:07 SA(Xem: 905)
Hôm nay tưởng niệm ngày Thầy rời xa chúng con tròn bốn năm. Chúng con tâm thành đảnh lễ Thầy một vị Ân Sư tôn kính. Lời tri ân xin được thay thế bằng sự cố gắng tu tập theo đúng Chánh pháp. Nguyện sống sao cho xứng đáng là đệ tử của Thầy.
25 Tháng Mười Hai 20238:25 SA(Xem: 1074)
Mình chỉ sống thảnh thơi, cái tâm bình an, thanh thản, hiểu biết những định luật tụ nhiên này, giúp người khác cũng hiểu biết như mình, sống hài hòa cùng nhau. Thì đâu còn cái gì là tham sân si, cái gì là lậu hoặc, cái gì là biển khổ trần gian nữa.
21 Tháng Mười Hai 20233:51 CH(Xem: 1003)
NIỆM, CHÁNH NIỆM, CHÁNH NIỆM TỈNH GIÁC Dù là những danh từ chết, thuật ngữ vẫn là những danh từ chuyên môn của một bộ môn. Tác dụng từ chuyên môn này nhắm giúp người mới bắt đầu đi vào ngành chuyên môn hiểu được thực chất các từ ngữ chết đó nói lên ý nghĩa gì, công dụng ra sao... Khi hiểu sai, sự dụng công của ta dễ dàng đưa đến sai. Tất nhiên kết quả sẽ trái với điều ta mong muốn
21 Tháng Mười Hai 202311:14 SA(Xem: 834)
Kiết sử là những sợi dây trói buộc, sai khiến chúng sanh trong ba cõi sáu đường. Nó sai xử chúng sanh làm việc này việc nọ, thiện có, ác có… tạo đủ thứ nghiệp, khiến chúng sanh phải chịu luân hồi sanh tử hết đời này sang đời khác để trả nghiệp quả đã gieo.
20 Tháng Mười Hai 20238:11 SA(Xem: 990)
Làm chủ sự suy nghĩ, đó là cách ta trực tiếp huấn luyện tâm trở nên yên lặng hay trở nên thuần thục. Nó không lăng xăng dao động vì những chuyện thị phi của thế gian. Tế bào não vùng suy nghĩ sẽ từ lần bị hạn chế dính mắc ngoại duyên. Ý hành, ngôn hành sẽ trở nên yên lặng. Tâm định sẽ trở nên vững chắc. Nếu thực sự đạt được làm chủ suy nghĩ, xem như ta làm chủ được sự di động của tâm.
13 Tháng Mười Hai 202311:24 SA(Xem: 1009)
A lit incense stick in honor of Thầy. Minh Tuyền
13 Tháng Mười Hai 202311:05 SA(Xem: 932)
Alors, Bahiya, il faut t'entraîner ainsi: Dans ce qui est vu, il n'y aura que ce qui est vu; Dans ce qui est entendu, que ce qui est entendu; Dans ce qui est ressenti, que ce qui est ressenti; Dans ce qui est connu, que ce qui est connu.
06 Tháng Mười Hai 20239:29 SA(Xem: 983)
La Bouddhéité vient de nulle part. Elle ne s'inscrit pas dans la loi de la causalité des phénomènes. Nous ne pouvons pas découvrir d'où elle vient depuis que l'homme est apparu sur terre. La Bouddhéité est la conscience immanente, appelée conscience primordiale. C'est une connaissance non verbale, par opposition à la connaissance de l'intellect et de la conscience discriminante.
03 Tháng Mười Hai 20236:39 CH(Xem: 987)
AUDIO: HT THÍCH THÔNG TRIỆT Thực hiện VIDEO: NHƯ ANH Đạo tràng Toronto
30 Tháng Mười Một 20232:03 CH(Xem: 833)
Đôi nét Giới thiệu trường Đại Học Tuebingen Đức Quốc và Tiến sĩ Vật lý Michel Erb Nơi và Người đã chung sức cùng hòa thượng Thích Thông Triệt xác định các định khu não bộ lúc hành Thiền Các kết quả này đã được công bố trong 2 kỳ Hội Nghị Quốc Tế về Não Bộ (OHBM) năm 2010 tại Barcelona (Tây ban Nha) và năm 2011 tại Quebec (Canada)
69,256