- Bài Trình Thứ Nhất: Một Quãng Ngắn Đời
- Bài Trình Thứ Hai: Vài Điều Thấy Biết
- Bài Trình Thứ Ba: Những Khúc Sông TÂM
- Bài Trình Thứ Tư: Trận Chiến
- Bài Trình Thứ Năm: Con Đường Đang Đi
- Bài Trình Thứ Sáu: Tiến Trình Chuyển Hóa
- Bài Trình Thứ Bảy: Hiện Tượng Thế Gian
- Bài Trình Thứ Tám: Giá Trị Kinh Đại Bát Niết Bàn Đối Với Người Con Phật
- Phụ Lục 1
- Phụ Lục 2
- Phụ Lục 3
Con Đường Đang Đi
Kính thưa Thầy,
Đêm nay là đêm 26 tháng 2 năm 2005.
Đã qua sáu năm rồi con không viết bài riêng trình Thầy. Trong khoảng thời gian này, có vài bài trình cuối khóa, đã trình trước Thầy và trước lớp, lớp trung cấp 1, lớp trung cấp 2 Bát Nhã, lớp cao cấp 1 và 2 Tâm Lý Học Phật Giáo... đều có in trong các số đặc san. Đêm nay, con nhớ lại, buổi sáng mùng một Tết vừa qua, tức ngày 9 tháng 2- 2005, khi con điện thoại lên thiền viện mừng tuổi Thầy, trong câu chuyện, con có trình Thầy vài điều nhận định trong việc tu tập của con, Thầy lắng nghe, cuối cùng Thầy nói con nên viết lại bài trình này rõ ràng chi tiết hơn.
Cho nên đêm nay con khởi sự viết tiếp cho tập BÀI TRÌNH THẦY này.
Kính thưa Thầy,
Trong câu chuyện hôm sáng mùng một Tết đó, không biết từ đâu đưa tới việc con trình Thầy về sự tu tập của con và con đã nói những gì, bây giờ ngẫm nghĩ lại để viết ra cho mạch lạc, thì thật là khó. Con chưa biết bắt đầu từ đâu, kể lại theo thời gian, hay là kể lại theo sự kiện ? Mà dù là thời gian hay sự kiện, cả hai cũng đều như nước chảy xuôi dòng. Con đường đang đi thì cũng chính là dòng sông đang chảy ra biển. Có khác gì đâu. Cho nên thôi thì dòng sông tâm chảy ra sao con ghi lại như thế đó.
Đầu năm 2000, con chính thức phụ trách việc làm bản tin sinh hoạt hàng tháng. Công việc này trong một, hai năm đầu cũng không mất nhiều thời gian lắm; đến mấy năm sau này, công việc trở nên càng ngày càng nhiều. Mới nghe tưởng chừng như đơn giản: Thầy giảng, mình ghi, rồi về đánh vào máy computer. Có vậy thôi, ai làm cũng được. Không cần có tài gì đặc biệt. Nhưng rồi mỗi năm thiền sinh các nơi cứ thỉnh mời Thầy đi, càng lúc càng nhiều nơi hơn, càng lúc càng nhiều lớp hơn cho nên càng lúc càng nhiều ngày hơn. Còn nội dung giảng của Thầy càng lúc càng súc tích dồi dào hơn. Các sơ đồ càng ngày càng phức tạp, chi tiết hơn, đến đổi con không thể vẽ vào computer nổi nữa.
Hồi cuối năm 2003, khi nhìn chương trình giáo hóa trong năm 2004, con đã cảm thấy quá bận, tưởng chừng như mình không kham nổi nữa cho những chuyến đi xa quá dài ngày. Mà rồi công việc trong năm 2004 cũng qua đi hoàn mãn. Năm nay 2005, chương trình cũng đã dự định xong, giữa các chuyến du hóa xa không có nhiều ngày nghỉ ngơi nữa. Thực ra nói nghỉ ngơi, chớ là thì giờ để làm bản tin. Từ tháng 3 đi mãi cho tới cuối tháng 9 mới xong, có xen kẽ giữa các chuyến đi, nhiều lắm là một tuần, vậy làm sao để có thì giờ làm bản tin đây ? Năm rồi Thầy muốn con đem theo cái laptop để làm việc thêm. Nhưng con có thưa là trong các khóa tu học, ngày nào cũng bận từ sáng đến tối, không có thì giờ nào để làm bản tin. Nhưng hổm rày con ngẫm nghĩ chắc năm nay phải vâng lời Thầy mà đem theo laptop rồi.
Công việc bận như vậy cho nên con được một điều ích lợi là không có thì giờ rảnh để mà nhớ nghĩ tới quá khứ hay mơ mộng tới tương lai. Cũng không có thì giờ để ngắm nhìn soi mói người khác. Thành ra con nghiệm lại công việc làm bản tin thực sự là con đang dụng công miên mật, chớ không có lơi lỏng. Con được theo Thầy đi khắp nơi, nghe tất cả những buổi giảng của Thầy tại khắp các đạo tràng. Con lẩn thẩn tính ra từ khi con học khóa căn bản 2 đến nay là khóa căn bản thứ 27, con đều tham gia từ đầu tới cuối, chỉ thiếu có khóa 1 mà thôi. Còn về Bát Nhã, con học khóa 1, đến nay con đã học tới khóa 11 rồi. Còn Tâm Lý Học Phật giáo, Thầy dạy 3 khóa con đều học đủ.
Thành ra pháp học pháp hành, con đều nắm được.
Đôi khi, con có thắc mắc, tại sao mỗi khi nghe Thầy giảng dù là căn bản hay Bát Nhã, con đều lắng nghe, ghi chép, mà không nhàm chán, không xao lãng ? Con đã lắng nghe như là mới nghe lần đầu, thích thú theo dõi những lời giảng giải của Thầy, tâm không phóng đi chỗ khác, không phóng về quá khứ hay tương lai, không phóng đi rong, không phóng đi tới những chuyện thị phi ...
Khi về nhà, lúc ngồi trước máy computer, tâm con cũng vậy.
Làm sao con nhận ra là con không phóng tâm khi nghe pháp ? Có nhiều lúc, Thầy đang giảng, đột nhiên Thầy kêu con lên đúc kết lại bài. Con vâng lời Thầy mà tâm không xao xuyến. Con bước lên bảng, lúc đó đâu có thì giờ suy nghĩ điều gì. Con đúc kết lại bài học. Nhờ vậy mà con nhận ra được một điều: đó là nhận thức cô đọng.
Con thấm thía ý nghĩa của nhận thức cô đọng. Có một lần con đọc lại quyển sách của Thầy, ”Tác dụng của Thiền đối với đời sống con người,”chương nói về tánh giác. Con nhìn thấy câu: nhận thức cô đọng là chức năng của tánh giác. Lúc còn đang học lớp căn bản, chắc chắn là con đã có đọc đến phần này rồi, nhưng phớt qua, không hiểu được thực sự và không để ý tới nó. Sau này, con mới nhận ra nhận thức cô đọng thực sự là cái gì.
Như khi Thầy bất chợt kêu con lên bảng đúc kết bài. Con đứng dậy đi liền lên bảng, trong đầu lúc đó có suy nghĩ gì đâu. Nhưng thực sự lúc đó con đang có nhận thức cô đọng về tất cả bài Thầy vừa giảng. Nên con trình bày ngắn gọn rõ ràng và đúng vào chủ đề. Nếu như con không có cái nhận thức cô đọng lúc đó, mà con chỉ có cái nhận thức lờ mờ, rối ren, thì con sẽ không dám lên bảng, hay là con do dự hay là con từ chối.
Nhận thức cô đọng là nhận biết rõ ràng và đầy đủ mà trong không lời. Đó là chức năng của tánh giác, ở một mức độ cao hơn cái biết không lời.
Làm sao để có được cái nhận thức cô đọng đó ?
Trong hoàn cảnh của con đang sống và tu tập thì nó diễn tiến như thế này. Khi con còn là một cư sĩ, sống ở nhà với con cháu thì thực sự có quá nhiều việc phải làm hay phải quan tâm tới. Trong nhà lại có một đứa cháu nội phải trông coi. Khỏi kể lễ dài dòng, chúng ta đều có nhiều kinh nghiệm về những lủng củng, những điều không như ý, những việc bất hài hòa xảy ra giữa mình và con trai, con gái, dâu và cháu v.v...Con không ra ngoài qui luật xung đột đó. Khoảng năm 2000, con ở trong trạng thái bực bội buồn phiền vì quá bận rộn những việc không đâu, không còn thì giờ để tu tập, để tọa thiền nữa. Một hôm, trong buổi học Bát Nhã tại trung tâm Santa Ana, các bạn chia sẻ kinh nghiệm giữa lớp. Thì có anh Hiếu Dương- sau này là sư chú Không Huệ- anh đã trình bày rằng bây giờ anh thực tập Thiền trong khi đang tiếp xúc bệnh nhân. Anh biết rõ ràng và đầy đủ trong không lời khi anh nhổ răng, trám răng... do đó công việc tiến hành nhanh chóng và hoàn hảo hơn trước, lại thân tâm nhẹ nhàng khỏe khoắn hơn. Con nghe rồi, mới sực nhớ lại là phải biết cái bây giờ và ở đây trong những lúc làm việc nhà. Thì mới không bực bội vì cho là mất thì giờ, là không được tọa thiền. Thầy đã giảng dạy thực tập vô ngôn trong bốn oai nghi, Thầy dẫn chứng trong kinh, Đức Phật dạy: Đi biết đi, đứng biết đứng, mặc áo biết mặc áo...Tuy đã thuộc lòng pháp học pháp hành, mà trong những ngày tháng quá bận, tâm con trở nên mê mờ, bị vọng tâm điên đảo dấy lên dẫn đi tới chỗ bực bội phiền não.
Bấy giờ, nhờ kinh nghiệm của anh Hiếu Dương, nhắc nhở con chuyển đổi cách nhìn, cách sống. Từ đó, con làm cái gì chỉ biết cái đó thôi. Công việc, hoàn cảnh vẫn y nguyên như trước, nhưng con từ từ bớt bực bội, cho nên công việc cũng trở nên nhẹ nhàng. Tâm lần lần thoải mái hơn. Lúc ngồi trước computer làm bản tin thì chăm chú làm thôi, khi chơi với cháu chỉ biết chơi với cháu, lúc rửa chén chỉ là rửa chén, lúc làm vườn chỉ biết làm vườn, lúc kể chuyện đời xưa cho cháu nội ngủ, thì chỉ biết kể chuyện đời xưa. Tuy vậy một ngày bận rộn, đến khi cháu nội ngủ thì con cũng đã mệt đừ rồi, có khi con vừa kể vài câu đã ngủ trước nó. Thành ra tọa thiền không có thì giờ nhứt định nữa. Giữa đêm thức giấc, ngồi dậy tọa thiền, rồi tiếp tục ngủ nữa.
Kết quả là nhờ làm cái gì chỉ biết cái đó, tâm con bớt phóng đi đến chỗ lầm bầm bực bội người khác. Con cũng không còn bực bội vì biết rõ là mình vẫn đang tu tập trong những công việc hàng ngày, mà lúc trước mình tưởng là vô ích, là không phải đang dụng công.
Con nghiệm thấy tâm mình chuyển đổi cách nhìn sự việc thì nó được thoải mái hơn, do đó không khí gia đình cũng hài hòa hơn trước.
Về mấy năm gần đây, gia đình lại có thêm một đứa cháu nhỏ nữa, còn việc làm bản tin thì đòi hỏi nhiều thì giờ đi đó đây và xem lại bài vỡ, chọn lọc nội dung nào thích hợp mới đánh vào máy v.v.. Công việc của con càng lúc càng bận hơn, nhưng con cũng còn kham được. Chỉ ngại là sức khỏe, càng ngày tuổi càng cao, làm sao tiếp tục mãi được?
Con nhận biết nhược điểm của con là không có thì giờ rảnh rang và nhứt định để dụng công tọa thiền cho mức định được vững chắc hơn. Từ năm rồi, con đã có thưa với Thầy xin Thầy tìm người phụ trách Bản tin sinh hoạt tiếp tay với con để sau đó giao luôn việc này. Con muốn bước qua một lãnh vực khác. Đã năm năm tròn lãnh nhiệm vụ thông tin, con thấy cũng đủ.
Kính thưa Thầy ,
Trở lại câu hỏi: làm sao để có cái nhận thức cô đọng ? Thì chính là do bước khởi đầu: làm cái gì chỉ biết cái đó. Vì làm cái gì chỉ biết cái đó, nên cái biết này rõ ràng, đầy đủ về việc đang làm, cũng là cái biết như thật, biết cái đang là, biết cái bây giờ và ở đây...Trong lúc đó không có suy nghĩ tính toán, so đo phải trái hơn thua, không có vẽ vời suy đoán, không có bực bội, không có quá khứ, tương lai, không dính mắc phiền não...Vậy thì đó là tâm gì ? Dù cho nó có lời hay không lời, cũng là chân tâm. Có lời thì là trí năng đã tỉnh ngộ, lời cũng không hai bên, không dính mắc, thì lúc đó ý căn, ý thức cũng không có hoạt động.
Nhận ra như vậy, con soi lại con đường con đã đi trong năm năm nay, thì con thấy là con đường của Thiền Huệ, mặc dù con không bỏ việc tọa thiền. Mỗi khi nhà vắng, con lại tranh thủ tọa thiền. Nhưng thì giờ để tọa thiền, con biết là chưa đủ.
Thêm một điều con nhận ra là càng ngày trí nhớ của con càng tốt.
Con không nói là phục hồi ký ức. Nếu ký ức ngày còn trẻ là tốt, thời gian lớn tuổi thì mất đi từ từ, quên trước quên sau, bây giờ phục hồi lại, mới gọi là phục hồi ký ức. Còn con lúc trẻ, như lúc còn đi học Luật và Văn khoa, đáng lẽ trí nhớ phải tốt, tốt nhứt trong đời người. Nhưng ngay lúc đó, con đã biết rằng mình không có trí nhớ tốt, như những bạn bè theo học ban Khoa học. Con khó mà học thuộc lòng. Có một sự kiện đã xảy ra hồi con vừa mới đậu tú tài 2, đó là con ghi tên theo học Dược. Hồi đó, năm đầu tiên là phải thực tập với một dược sĩ. Bà dược sĩ khi đó, trong ngày đầu, đưa cho con mấy trang giấy bài, chỉ là những tên các loại cây cỏ, tên gốc latin, tên khoa học, tên việt ngữ v.v… Con ráng học thuộc lòng. Hễ học thuộc năm tên đầu rồi, mới học tiếp năm tên kế. Mà khi học tiếp thì quên năm tên trước ngay. Trong mấy ngày cố gắng đến mấy vẫn không thuộc được một trang. Vậy thì làm sao đây ? Con bỏ học Dược. Con học Văn Khoa và Luật. Nhưng Luật thì cours bài rất dài. Có nhiều ông thầy dạy, mỗi vị phụ trách một môn, mỗi môn là một cuốn sách dày cộm, còn nếu cours quay roneo thì càng dày hơn. Làm sao con có thể nhớ nổi bấy nhiêu đó ? Con làm cái dàn bài, chỉ ghi nhớ cái dàn bài mà thôi, từ đó khai triển ra thêm chi tiết khi đi thi. Do đó con nhận ra trí nhớ của con chỉ ghi nhận được những sự kiện có liên quan với nhau, còn những sự kiện riêng rẻ, không dính dáng gì hết, thì không thể gợi lại được.
Thí dụ khác, trong mấy mươi năm qua, con khó nhớ lại tên hay mặt, những người con đã gặp một lần, hay vài lần. Cho đến những người bạn học cùng lớp khi xa một thời gian cũng không nhớ lại được. Điều này đã gây ra nhiều sự buồn phiền.
Sau thời gian tu học với Thầy, cho đến nay đã được 10 năm, con nhận ra trí nhớ của con càng ngày càng tốt hơn. Thầy đã nhiều lần giảng rằng khi đối giao cảm thần kinh hoạt động, thì ở cuối dây thần kinh này tiết ra acetylcholine. Chất sinh hóa học này có nhiều công năng: thí dụ như hoá giải hai chất epinephrine và norepinephrine, điều chỉnh áp suất máu, điều chỉnh đường trong máu, điều chỉnh cholesterol, thân nhanh nhẹn, linh hoạt, trí năng sắc bén, và phục hồi ký ức. Lý do là tác động dây chuyền sẽ làm cho các khớp dây thần kinh phát triển, chứa thêm những ký ức mới thay thế cho mớ tế bào ký ức cũ bị mất đi vì tuổi già.
Ngoài ra con lại nghiệm thêm rằng: kho chứa dữ kiện- tức kho ký ức dài hạn, hay vận hành- con không nói tới kho ký ức ngắn hạn hay amygdala, vì con không còn có những xúc cảm mãnh liệt để cất vào ký ức ngắn hạn nữa- kho ký ức dài hạn hay ký ức vận hành giống như cái tủ lạnh. Hễ mình cất cái gì thì sẽ lấy ra cái đó.
Như trên con đã có nói, khi nghe Thầy giảng pháp, con lắng nghe, không có tạp niệm lung tung. Con nhận hiểu rõ ràng và thứ lớp, nên khi những sự kiện xếp vào kho ký ức thì chúng cũng rõ ràng và thứ lớp. Khi bất chợt Thầy gọi lên bảng, con đã trình bày rõ ràng mạch lạc, không lúng túng. Trước khi con nói, thì là con đã có cái nhận thức cô đọng về nó rồi. Khi nói ra, chỉ là khai triển những điều đã được cô đọng, mượn lời để nói lại cái mình nhận thức rõ ràng và đầy đủ trong tâm. Mà trong cái nhận thức rõ ràng và đầy đủ này đôi khi có thêm một chút sáng tạo, một chút kiến giải thêm của trí năng tỉnh ngộ và một chút kinh nghiệm trong khi dụng công.
Nói cho đúng, thì là tất cả đã được nội tại rồi. Khi trình bày ra, con có thể trình bày trong cách riêng mà con nhận hiểu.
Do vậy con nhận ra tứ vô ngại giải, mà trong kinh có nói, không phải là thần thông, không phải là một cái gì huyền bí mơ hồ khó giải thích. Mà đó là kết quả của một tiến trình tu tập, dụng công lâu dài cho đến khi có được nhận thức cô đọng về tất cả những hiện tượng thế gian, và về chân tánh của hiện tượng thế gian. Khi đó, chức năng kiến giải và sáng tạo của tánh giác sẽ hoạt động, và bấy giờ thuật ngữ gọi là huệ tự phát.
Nói tới đây, con lại tâm đắc ở chỗ hai chữ tiến trình.
Đàng sau hai chữ tiến trình là có thời gian dài, trong khi đó, người tu tập phải có chí kiên nhẫn, có quyết tâm. Thầy thường nói là thực hành miên mật và đều đặn. Bởi vậy người có tính nóng nảy, hấp tấp, muốn dụng công có kết quả ngay, thì thường là bỏ cuộc nửa chừng. Người này sẽ đi nhiều nơi, nghe nhiều vị giảng pháp, rồi chê khen, rồi thử thực hành đủ cách, để rồi như người lính tập đi 1- 2- 1- 2 mà vẫn ở một chỗ.
Con biết con có lòng kiên nhẫn. Trong việc làm Bản tin hàng tháng, cũng đòi hỏi phải kiên nhẫn, kiên nhẫn nghe pháp từ đầu đến cuối mỗi khóa tu, trong 26 khóa tu căn bản và những khóa Bát Nhã v.v… từ trước đến nay, biết hết rõ ràng những sự kiện xảy ra trước mắt trong cái nhìn khách quan để sau này tường trình lại. Thành ra con không hề khởi ý thực hành chánh niệm tỉnh giác, mà đủ duyên, con lại đang thực hành cái biết rõ ràng và đầy đủ trong bây giờ và ở đây, ngày này qua ngày khác, năm này qua năm khác, ở đạo tràng này đến đạo tràng khác. Không ngơi nghỉ.
Kính thưa Thầy ,
Có một lần, con trình Thầy như vậy, và con có nói cái thắc mắc của con. Mỗi khi nghe có người nói: - “Tôi học lớp đó rồi, đâu cần đến nghe lại nữa.” Hoặc nói: - “Đã học rồi nghe lại chán lắm.” Con suy gẫm lại mình, sao mình học hoài, nghe pháp hoài mà không thấy chán ? Sao mình vẫn lắng nghe, vẫn ghi chép, vẫn vui thích ? Sao mình vẫn nhận ra một điều gì đó mới lạ và hữu ích cho mình ?
Con nhớ lại đâu đó trong kinh điển Phát Triển, nói rằng các vị trời hay các vị bồ tát thường đến nơi có các Đức Phật đang giảng pháp để nghe pháp mà không bao giờ nhàm chán. Lúc đọc tới đó con thắc mắc tại sao các vị ấy nghe pháp hoài mà không chán ? Tới giờ con cũng chưa trả lời được. Con không dám so mình như các vị ấy đâu. Con chỉ nhận ra rằng quả thật có sự kiện nghe pháp hoài mà không chán. Và con có thưa với Thầy câu trả lời tạm của con, đó là: chắc mình đã trồng căn lành với Phật pháp rồi.
Nói đến đây, con biết là con đã trồng căn lành với Phật pháp rồi. Từ khi con theo tu học với Thầy, con có tiến tới, mà không có lùi, tuy là tiến rất chậm, như con rùa đi.
Và từ khi phát tâm phủi tóc, thì mọi việc đều từ từ tiến tới, không có sự kiện gì cản trở bước đường dấn thân của con.
Trong chuyến hành hương Phật tích vừa qua ở Ấn độ- Nepal, từ 1 tháng 11 cho đến 26 tháng 11- 2004, ngoài sự kiện con được Thầy làm lễ xuất gia sáng sớm ngày 9 tháng 11, và lễ thọ cụ túc gieo duyên (lễ thọ giới chính thức sau này được Thầy tổ chức vào ngày 1 tháng 8 -2005 tại thiền viện) vào sáng ngày 11 tháng 11 tại Bồ Đề Đạo Tràng, bên cạnh Kim cang tòa, dưới bóng cây Bồ Đề là một sự kiện quan trọng trong đời tu của con, còn có một sự kiện nữa cũng quan trọng. Đó là kinh nghiệm trong khi tọa thiền bên cạnh ngôi Đại Tháp, bên Kim cang tòa.
Trong năm ngày ở tại Bồ Đề Đạo tràng, mỗi sáng sớm, Thầy dẫn đoàn chúng con đến tọa thiền. Trong không khí yên tĩnh của bóng đêm, trong từ trường thanh tịnh của nơi tôn nghiêm này, chúng con dễ vào định. Có một lần con vào định. Khi mở mắt ra xả thiền, mới hay là Thầy đã dẫn hầu hết thiền sinh đi đâu mất. Nhìn quanh bỡ ngỡ chỉ còn vài ba bạn cũng đang xả thiền như mình. Con rất ngạc nhiên, ủa sao hơn 20 bạn xả thiền, lấy áo khoác, bồ đoàn, rồi di chuyển, làm gì không có tiếng sột soạt, tiếng chân bước đi, dù là đi chân không ? Sau đó đi tìm Thầy và đoàn, thì là Thầy dẫn thiền sinh đi khắp nơi trong khuôn viên Bồ Đề Đạo tràng để tham quan từng nơi.
Lúc đó con có tới hỏi Thầy :- Thưa Thầy, sao Thầy không kêu tụi con đi với ?
Thầy trả lời:- Thầy có kêu xả thiền mà !
Lúc đó con mới ngẩn ngơ, vậy sao mình không hay gì hết? Con nhớ lại là con rất tỉnh thức, hoàn toàn không có hôn trầm. Trạng thái tâm hôm ấy rất thảnh thơi nhẹ nhàng, tuy nhắm mắt nhưng các căn rất sáng, vậy sao không có âm thanh trong đó, không có tiếng động trong đó ?
Con lại nghiền ngẫm cái kinh nghiệm này. Có phải trong cái nghe chỉ là cái nghe, tức lúc đó chỉ có tánh nghe hiện hữu, mà không có âm thanh trong tánh nghe ? Trong tánh nhận thức chỉ là tánh nhận thức, không có cái gì trong tánh nhận thức đó ? Các căn rất sáng là vì các tánh rất sáng trong lúc đó, nhưng chúng chỉ là chính chúng thôi. Tánh sáng chỉ chiếu sáng chính nó mà thôi. Không có ngoại trần, nếu có ngoại trần in bóng vào thì là có dấu vết, có tướng rồi.
Kính thưa Thầy ,
Kinh nghiệm định đó, con cũng thực tập bằng chiêu: “không nói.” Con ngồi bán già vững vàng rồi, khởi ý: “không nói.” Rồi sau đó chìm vào chỗ “nhận thức không lời không nói.” Lúc đó cũng không khởi ý có nhận thức không lời. Trạng thái lúc đó cũng nhẹ nhàng thảnh thơi lặng lẽ như mọi khi. Nhưng bấy giờ có nhận thức không lời mà không có đối tượng nào trong nó cả. Chỉ là chính nó mà thôi.
Con lại nhớ đến cái kinh nghiệm thứ nhất, cuối khóa Bát Nhã con đã trình Thầy trong bài “Mấy nhịp cầu tre.”
Hai kinh nghiệm này cho con hai cái nhận ra khác nhau.
Kinh nghiệm thứ nhất đó cho con nhận ra được vô ngã là sao, vô tướng là sao, thể nhập “Chân như” là sao, thể nhập “Không” là sao. Con đã nhận ra rõ ràng trạng thái vô ngã, rõ ràng cho đến nổi như là cảm giác hay cảm nhận được nó vậy. Chớ không phải nhận ra qua lý luận phân tích của triết học. Con nhận ra quả thật không có sắc-thọ-tưởng-hành-thức lúc đó.
Kinh nghiệm ở Bồ Đề đạo tràng thì cho con nhận ra rõ ràng bài kinh Phật dạy ông Bāhiya: “Trong cái thấy chỉ là cái thấy, trong cái nghe chỉ là cái nghe, trong cái thọ tưởng chỉ là cái thọ tưởng, trong cái thức tri chỉ là cái thức tri.” Còn ngoại trần hay đối tượng thì không dính dáng gì trong đó hết. Thì lúc đó cũng như ý thức không đối tượng.
Kính thưa Thầy,
Mấy năm trước—con không nhớ rõ năm nào—nhân một hôm đi dự đám tang của một vị trụ trì một Thiền viện lớn ở đây, nhìn hai vị tăng ôm nhau khóc ở ngoài sân, nghe vị Hòa thượng đọc điếu văn nức nở bên trong chánh điện, con hơi ngạc nhiên. Ủa ! Sao các vị tu cao mà xúc động quá vậy ? Không lẽ vì người ta thân thiết với nhau, còn mình là bàng quan nên thấy lòng bình thản ? Lại lắng nghe các bài ai điếu kế tiếp, con nhận ra nhiều sáo ngữ quá, mà người đọc thì giọng ai oán ngập ngừng. Còn mình sao vẫn thản nhiên, không lẽ lạt lẽo vô tình ? Lúc sắp di quan ra, con chọn một nơi đứng bên đường, sẵn sàng chụp hình. Nhìn ra trước mặt, chợt thấy người bạn tu cố tri lâu ngày không gặp đang mặc chiếc áo tràng màu dà, hai người cùng chắp tay cúi đầu mĩm cười chào nhau. Sau đó lại chợt trông thấy hai người bạn khác đang tiến tới, họ vừa đứng lại bên đường đối diện, ngước mặt lên, họ chợt trông thấy con, lúng túng chào, con cũng chắp tay mĩm cười cúi chào. Họ bẽn lẽn cúi đầu thụt lùi lại rồi lẩn mất trong đám đông. Ngay lúc đó con chợt nhận ra tâm con sao lại bình thản quá. Chân con vẫn đứng vững tại chỗ, không nhúc nhích hay thụt lui bước nào. Còn hai người kia lại cúi đầu, không nhìn con, thụt lùi lại, đi mất. Trông thấy người bạn cố tri sao tâm không mừng rỡ, trông thấy hai người từng đả kích rêu rao mình, sao tâm không gợn sóng ? Thấy người khác khóc sao tâm không xao xuyến ?
Trạng thái bình thản này cũng là một tiến trình chuyển hóa của tâm, đòi hỏi một thời gian lâu dài. Con nghĩ nền tảng của tâm bình thản của con là nhận ra được những chân tánh của hiện tượng thế gian. Trong đó tâm đắc nhất của con là con nhận ra qui luật xung đột.
Khi một người nổi sân, con biết lúc đó tâm họ là một bãi chiến trường. Khi một người phê bình kẻ khác, nói lỗi người khác, đả kích người khác, tâm họ là một bãi chiến trường xung đột. Họ nhận được liền quả báo dội ngược. Đó là ý nghĩa chủ đề Hồi đáp sinh học mà Thầy thường giảng đi giảng lại. Con lại có một câu, như một tiền đề đặt ra cho riêng mình: mình đang sống giữa biển vọng tâm. Thành ra khi nhận được một lời đả kích, một lời sân hận, con không ngạc nhiên mà cũng không bực bội, con chỉ xét lại mình coi có đúng như vậy không ? Nếu người ấy nói thẳng với mình thì con sẽ phân trần để đừng hiểu lầm thêm. Nếu như là lời nói sau lưng, thì con không cần biện minh. Và cũng vì biết mình đang sống giữa biển vọng tâm, nên con không xét đoán phê bình hay tìm lỗi nhỏ nhặt của người khác làm gì. Con biết là mình đang trong thời kỳ chăn trâu, và là chăn con trâu tâm ngang bướng của chính mình mà thôi. Chỉ có vị Thầy mới đủ khả năng chăn hay điều phục con trâu tâm của đệ tử. Còn mình là người sơ cơ, chăn con trâu tâm của mình còn chưa được, hà huống nhìn ngó tới lỗi của người khác.
Nói tới đây, con nhớ lại quyển Pháp Bảo đàn kinh của Lục Tổ. Con đã đọc nhiều lần trước khi tu học theo Thầy, và sau này cũng có đọc lại, thiệt tình con chưa lãnh hội được gì nhiều, ngoài một câu mà con tâm đắc, như một câu châm ngôn ghi nhớ không quên, đó là câu:
Nếu thấy lỗi của người,
Lỗi mình đã đến bên.
Con nhận ra rằng khi mình nhìn thấy lỗi của người khác là tâm đã khởi động rồi, tự ngã có mặt, và từ đó ý nghiệp, lời nghiệp dấy lên. Tâm đó không còn trong sáng, bình thản hay khách quan nữa.
Con cũng đồng thời nhận ra rằng khi một người ôm lòng sân hận, đố kỵ đối với một người khác là người đó chưa nhận ra được tánh giác của chính mình. Dù là người đó đã học xong lớp căn bản, hay ba lớp Bát nhã, hay cả lớp Tâm Lý Học Phật giáo v.v... Tại sao ? Là vì khi mình nhận ra rõ ràng và sâu sắc tánh giác của chính mình thì có một niềm vui không bao giờ tắt, âm thầm lan tỏa trong tâm, khiến tâm mình thơ thới nhẹ nhàng, có lòng tự tin, có lòng bao dung, không còn sợ cảnh già- bệnh- chết, và mình chỉ cắm cúi mà đi tiếp trên con đường sáng của trí tuệ. Đó là con nói mới nhận ra, huống chi là người đang dụng công và kinh nghiệm được một ít diệu dụng của tánh giác.
Khi nhận ra được tánh giác của chính mình thì đồng thời cũng nhận ra mỗi người đều có tánh giác và tiềm năng giác ngộ, một khi bừng sáng tới chỗ viên mãn rồi thì cũng đạt được trí huệ cao tột.
Vậy thì còn ôm lòng ganh tỵ, sân hận, có nghĩa là viên ngọc của mình còn nằm yên trong chéo áo và cũng không nhìn thấy viên ngọc của người khác ở đâu. Càng ngày con càng nhận ra được ý nghĩa và tầm quan trọng của bài học vỡ lòng của Thiền, là bài Thầy thường dạy trong các khóa căn bản, đó là bài Ba sắc thái Biết.
Tánh giác mà chưa nhận ra được rõ ràng trong chiều sâu của nó, thì con đường Thiền thật lắm chông gai. Bởi vì ba lô Tự ngã còn mang nặng thì khó mà đi nổi con đường Thiền.
Kính thưa Thầy,
Tất cả những điều nhận định về pháp học, pháp hành, về con người, về chính mình, về hiện tượng thế gian, về chân tánh hiện tượng thế gian ...con tạm gọi là tuệ trí, dù là còn lời hay đôi khi nó nội tại trong nhận thức cô đọng, chính tất cả mớ hiểu biết đó đã như ngọn đèn sáng, soi con đường con đang đi, tránh được những sỏi đá trên đường, tâm thanh thản, để tiến tới cho dù là tiến tới như một con rùa đi.
Kính bút
28- 2- 2005
Kính thưa Thầy,
Đêm hôm qua, con đã chấm dứt bài trình của con, con đã in ra và định sẽ trình Thầy xem khi nào Thầy rảnh. Sáng hôm nay, đọc lại đến câu cuối mới hay là con nói chưa hết ý, về nhận thức cô đọng mà con tâm đắc đó. Con xin trình bày tiếp.
Con thích dùng từ cô đọng hơn là từ không lời. Chắc là tại vì trong hai chữ cô đọng, nó có mang ý nghĩa là trong nội dung của nhận thức có chứa rất nhiều, rất nhiều, nhưng tất cả mớ nội dung đó không hiển lộ ra trên bề mặt của tánh giác. Thành ra, biển tâm khi đó hoàn toàn phẳng lặng, không gợn sóng, như “hồ ý thức tĩnh lặng”- tựa đề một bài thi kệ của Thầy- nhưng ẩn sâu bên dưới là những điều hiểu biết, lãnh hội về hiện tượng thế gian, về chân tánh hiện tượng thế gian, về pháp học, pháp hành, những kinh nghiệm dụng công... Tất cả công phu tu tập đó nằm im trong kho ký ức dài hạn và vận hành. Vì thế khi con có nhận thức cô đọng về nó thì chỉ là một nhận thức không lời mà thôi.
Vì hoàn toàn không lời nên nó mới thực sự là cô đọng. Nếu có lời diễn đạt ra thì đã không còn cô đọng nữa.
Con hiểu là nhận thức thực sự thì ai cũng có, nó gần như bẩm sinh, cũng như tánh giác vậy.
Ngay cả nhận thức cô đọng cũng vậy, gần như là bẩm sinh, đối với người trí óc bình thường. Thí dụ như: thấy chiếc xe đạp, tự nhiên đến cầm lấy tay lái, leo lên ngồi đạp đi bình thường. Tức lúc đó mình đã có cái nhận thức cô đọng về việc đi xe đạp ra sao. Một thí dụ khác: gần trưa, mình tự động đi lấy nồi, đong gạo, vo nước, bắt lên nấu. Trong lúc làm tất cả những việc đó, không cần suy nghĩ, thì là mình đã có cái nhận thức cô đọng về việc nấu cơm.
Nhưng không phải những người bình thường đi xe đạp hay mỗi ngày mỗi nấu cơm đều là những người đang thực hành Thiền đâu. Con chỉ nói là trong những lúc đó họ làm được suông sẻ là vì họ có cái nhận thức cô đọng về việc đó, hay như Thầy thường nói là họ làm theo thủ tục. Tuy nhiên, người bình thường làm công việc này nọ theo thói quen, mà họ lại hay lo nghĩ tới chuyện khác, thí dụ, đi xe đạp mà mang cái headphone để nghe nhạc, hay đang nấu cơm lại mở băng cassette nghe pháp thêm v.v.. Cho nên tuy họ có nhận thức cô đọng mà họ không nhận ra được, và cũng không khai triển được nó để tiến bộ về tâm linh, như những hành giả Thiền.
Hơn nữa, mớ nội dung ở bên trong nhận thức của người bình thường là những nội dung liên quan đến quyền lợi vật chất hay tinh thần, là những mạng lưới đan dệt của danh, lợi, tài, sắc, ngủ, nghỉ, của tranh chấp, đua chen, của buồn phiền, đố kỵ, của bệnh tật, khổ đau...Vì thế tâm của họ luôn quấy động, vẩn đục, tạo ra thêm nhiều nhân duyên đưa đến luân hồi sanh tử.
Còn đối với một người thực hành Thiền, theo pháp Phật, thì khác, con nói thêm chỗ theo pháp Phật, vì hiện nay có nhiều loại cũng mệnh danh là Thiền, mà không phải thực đúng với kinh luận của Phật và Tổ. Đối với người thực hành Thiền, chúng ta có những chủ đề để dụng công, khai triển được chức năng của tánh giác, đó là chức năng nhận thức cô đọng. Điều này có nghĩa là: sau khi nhận ra được rõ ràng nhận thức cô đọng, hay nhận thức không lời là gì, chúng ta cho vào đó cái nội dung. Nội dung là những pháp hay chủ đề mà Phật dạy, như Không, Chân như, Huyễn. Đó cũng là ba chủ đề lớn được Phật giáo Phát Triển, hệ Bát Nhã khai triển ra để đi tới Huệ siêu vượt.
Một khi đã có nhận thức cô đọng về một chủ đề rồi, bấy giờ chỉ còn là vấn đề thời gian, củng cố cho nó vững chắc để phát huy tiềm năng giác ngộ của chính mình.
Nói đến đây, con lại có ý khai triển thêm một chút về sự phát huy tiềm năng giác ngộ .
Sự phát huy tiềm năng giác ngộ cũng là một tiến trình lâu dài. Lâu dài như thế nào còn tùy theo nhiều điều kiện, ví dụ như dụng công đều đặn, miên mật hay không, dụng công thư giãn hay đì thân đì tâm, kỹ thuật đúng hay không. Bây giờ giả dụ như cùng từ một lò thiền, cùng thực tập những kỹ thuật hay chiêu thức như nhau, nhưng kết quả cũng chưa hẳn giống nhau, vì mỗi căn cơ lại khác nhau rất xa. Khi nói đến căn cơ, con hiểu là khả năng lãnh hội pháp học và pháp hành của mỗi người hay cũng còn có thể hiểu thêm, đó là phước báu hay nghiệp chướng từ quá khứ của mỗi người. Chắc cũng vì thế nên trong kinh điển có nói: tu ba a tăng kỳ kiếp .
Tóm lại trí tuệ phát huy theo một tiến trình từ thấp đến cao, từ nông cạn đến sâu sắc hay nói theo thuật ngữ thiền: tiểu ngộ rồi đại ngộ. Không thể có một lần ngộ rồi là xong việc. Thầy thường nói: Phật tánh không phải là một cục hay một khối, không phải hễ một phen bật ra là xong.
Con nhận ra được những điều đó trong kinh nghiệm 10 năm tu học của con.
Năm 1995, con đã nhận ra được chức năng kiến giải của tánh giác, kiến giải những điều mà mình bế tắc từ trước. Lần đó, con chưa hề biết dụng công, nhưng con đã chất chứa quá nhiều nghi vấn về Phật pháp, tình cờ con rơi vào chỗ trí năng, suy nghĩ bế tắc, rồi cũng tình cờ ngay khi ấy, thư giãn tâm, thư giãn thân, thì tự động con nhận được những lời kiến giải mới lạ, dễ dàng, tự nhiên, như một cuồn chỉ cứ kéo ra từ từ, hết nhận thức này đến nhận thức khác, liên tục. Điều này con đã có trình rõ trong các bài trình trước.
Năm 1997, con cũng thêm một kinh nghiệm tánh giác kiến giải. Lần này con cũng rơi vào một chỗ bế tắc, như một trạng thái khủng hoảng tinh thần, không giải quyết được việc chung và việc riêng. Sau một giấc ngủ dài, thức dậy, con có ngay lời giải đáp: Vô Tác. Con biết giấc ngủ say đã đóng cửa trí năng, suy nghĩ, nên tánh giác lập tức kiến giải. Điều này con cũng đã trình rồi.
Tiếp theo đó, lần lần con nghiệm ra thêm, mỗi kinh nghiệm thực sự mình nhận ra được nhiều điều, chớ không phải chỉ một điều. Từ đó, con cũng hiểu thêm sự quan trọng của không mong cầu, không tác ý. Nếu như mình có tâm nguyện, có hoài bảo, có nôn nóng, có khởi ý, thì rất khó mà vào được chỗ thực sự thư giãn tâm. Vì niệm hay ý rất vi tế, mình tưởng là mình không khởi niệm, thực sự trong tâm vẫn còn chất chứa cái tâm nguyện, cái hoài bảo, cái tác ý mà mình không hay. Chính cái xung lực tâm nguyện, hoài bảo đó ngăn cản tiến trình kiến giải của tánh giác. Thì còn mong gì đi đến mức sâu sắc hơn là tạo ra được phản xạ thụ động.
Nhưng vấn đề là sau này làm sao để cho tánh giác bật ra kiến giải, khi mình cần ?
Sau này con đã biết cách dụng công bằng những chiêu thức hay kỹ thuật Thầy dạy. Hiện nay con ra lệnh: “không nói,” khi tọa thiền. Nhưng trước đó đã có một nghi vấn nào đó cất giữ trong ký ức rồi. Khi ra lệnh không nói, thì không còn nghi vấn đó hiện hữu nữa. Rồi để mặc cho nó tự động làm việc, chỉ giữ cái nhận biết rõ ràng và đầy đủ mà thôi.
Nếu như không có kiến giải nào thì có nghĩa là mình còn niệm vẩn vơ, tánh giác chưa có mặt. Hoặc là mình chưa có nghi vấn, để cho tánh giác, dù có mặt, mà không có đối tượng để nó kiến giải. Trường hợp này cũng tương tợ như si định. Tức là ý căn, ý thức, trí năng dừng thực sự, mà tánh giác chưa có mặt và chưa hoạt động. Cho nên trí tuệ chưa phát huy.
Tánh giác, nói thiệt đơn giản, đó là cái Biết. Nếu như lúc đó mình không biết, mình mơ mơ màng màng, có nghĩa là không có mặt tánh giác. Ngay cả trong bốn oai nghi, cũng chỉ là thực tập cho có cái biết rõ ràng và đầy đủ trong bây giờ và ở đây.
Mà làm sao để có cái biết rõ ràng và đầy đủ ?
Bước đầu tiên là con nhận ra được cái lóe sáng biết đầu tiên, khi các căn chạm vào các trần. Dùng mắt thì dễ nhận ra nhất.
Trong các khóa tu học, ngay ngày đầu, Thầy đã chỉ rõ cái loé sáng Biết đầu tiên này. Không giảng dạy quanh co giấu giếm, không đem kinh điển ra nói vòng vo, bí hiểm, không khơi trí tưởng tượng, không dạy tự kỷ ám thị, Thầy bảo thiền sinh nhắm mắt lại, rồi mở mắt ra, Thầy hỏi liền: - Có thấy tất cả trước mắt không ? ở trên, ở dưới ? bên phải, bên trái ? Thấy mà có biết không ? Thiền sinh đều gật đầu.- Trong lúc đó có suy nghĩ không ? Có nói thầm không ? Thiền sinh lắc đầu. - Đó đó cái loé sáng biết đầu tiên khi mắt chạm vào đối tượng. Cái nhận biết tức khắc, đồng bộ của tánh giác. Biết cái đang là, biết như thật. Rồi sau đó, Thầy hỏi tiếp: - Thấy cái chuông không ? cái bảng ? cái bàn ? Cái bàn này màu trắng, cái chuông màu đen, thấy không ? Đó là có ý thức phân biệt so sánh, gọi tên rồi phê phán: cái này tốt, cái kia mới, thích cái này, không ưa cái kia...Bây giờ cái biết khách quan của tánh giác không còn nữa.
Nếu như mình nhận ra được cái lóe sáng biết đầu tiên của tánh giác thì coi như đã tiến được một bước rồi, thuật ngữ gọi là ngộ, nhận ra được điều gì mà từ trước mình chưa hề biết. Tuy vậy đây chỉ là tiểu ngộ mà thôi.
Bước kế tiếp bằng những chiêu thức và kỹ thuật Thầy dạy, con thực tập để cho cái biết đó vững chắc hơn, trong những sinh hoạt hàng ngày và trong các thời tọa thiền. Muốn có kết quả, mình phải thực sự nhận ra khi nào là Biết có niệm và khi nào là Biết mà không niệm.
Đồng thời mình cũng cần nhận ra khi nào là tánh giác kiến giải, dù là nó chỉ kiến giải những điều nhỏ nhặt. Nếu không nhận ra được sự kiện tánh giác kiến giải thì khó mà đi tới chỗ phát huy trí tuệ. Cũng như không nhận ra được bước một thì sẽ không có bước hai, chớ đừng cầu mong một phen bừng sáng chỗ rốt ráo. Vì sao ? Nhận ra, tức là trí hay tuệ trí hay huệ, tùy theo mức độ cạn hay sâu của sự nhận ra. Nếu cứ chăm chú dụng công mà không nhận ra được điều gì mới lạ, thì mình còn mê mờ, chưa có trí tuệ, mình cũng chưa nhận diện được tánh giác và chức năng của tánh giác.
Bước kế tiếp, con nhận ra được chức năng nhận thức cô đọng của tánh giác. Tuy nhiên từ chỗ nhận ra cho đến khi thể nhập vững chắc là một con đường dài thăm thẳm, mà con biết là con phải đi tiếp cho tới cuối. Đời này không xong, đời sau phải đi tiếp. Con vững tin như vậy. Vì con nhớ có một bài kinh Phật dạy: một người hỏi Phật nếu như đang tu tập tinh tấn mà rủi chết thình lình thì đời sau như thế nào ? Phật giảng: giống như một cái cây đang nghiêng về một phía, nếu có ai đốn nó thì nó ngả về phía đó mà thôi. Cũng vậy một người đời này tu tập tinh tấn, như nửa chừng chết đi, đời sau cũng sẽ tiếp tục con đường tu.
Điều này không có gì huyền bí mơ hồ. Mình đang gieo những hột giống Phật pháp thì do nhân duyên này, những đời sau sẽ ra hoa có quả trong Phật pháp.
Kính thưa Thầy ,
Bởi vậy, lúc đầu con đã có nhận định là một khi thực sự nhận ra được tánh giác của chính mình rồi, thì có lòng tự tin, thì tâm nhẹ nhàng thơ thới, không còn sợ già- bệnh- chết, không còn ganh tỵ, nhỏ nhen, mà tự nhiên có lòng bao dung, có lòng tử tế, đối đãi chân thật, bình đẳng đối với tất cả mọi người. Những hạnh sống này tự nhiên mà có, đâu cần phải quán chiếu, đâu cần có giáo điều. Cũng như Thầy nhiều lần giảng tâm mình hài hòa thì hài hòa với mọi người, hài hòa với thiên nhiên. Và Thầy nói đó là diệu hữu của tánh giác. Con biết con đã nhận ra được một chút ít "diệu hữu" của tánh giác.
Kính thưa Thầy,
Trên đây là vài điều hiểu biết thô sơ của con, kính trình Thầy để Thầy chỉ dạy thêm.
Kính bút.