HỘI THIỀN TÁNH KHÔNG TRUNG ƯƠNG

Bài Trình Thứ Ba: Những Khúc Sông TÂM

Monday, January 10, 20222:10 PM(View: 2451)

Những Khúc Sông TÂM

Kính thưa Thầy
Đêm nay, 20-12-1998, con bắt đầu viết bài trình này, con xếp làm bài trình thứ ba. Lúc trước, khi con viết bài trình thứ hai, con không hề nghĩ đến chủ đề này, không biết là mình trình còn thiếu sót. Hôm nay, con sẽ đào sâu hơn nội tâm con, vì con nhớ đã có lần con nói là bây giờ càng ngày con càng nhìn thấy rõ tâm mình.
Con cho cái chủ đề này, chắc tại vì con thích hình ảnh của một dòng sông. Cuộc đời của mỗi người, khi quanh co, khi xuôi chảy, khi như thác đổ, khi lặng lờ. Tâm của mình cũng vậy, những suy tư, những xúc cảm, khi bâng khuâng, xao xuyến, khi ray rứt, u sầu, lúc vui, bao dung, tha thứ, khi buồn phiền, nặng trĩu. Nhưng không lúc nào dừng được cái dòng liên tục tuôn chảy của tâm. Chỉ có một dòng sông, nhưng nước sông không phải giống nhau từ đầu sông đến cuối sông. Mỗi khi va chạm một môi trường khác, sông lại tạm đổi màu, có khi đổi hướng, nhưng cuối cùng sông vẫn về biển, mặc dù trên quãng đường dài, không biết bao nhiêu hình ảnh in bóng vào lòng sông. Con sông dài không thể nào cắt ra từng khúc để nhận định, nhưng ta có thể chọn lọc vài điểm đặc sắc để tạm phân ra từng khúc sông.
Con xin đi ngược lại thời gian để nhìn ngắm lại những khúc sông dài của tâm mình.
Con xin lấy cái mốc thời gian năm 1989. Vào khoảng tháng 10- 1989, con bắt đầu ăn chay trường. Sự kiện ăn chay trường không phải là một điều đặc sắc; nhưng đối với con, nó đánh dấu bước khởi đầu cho việc tu tập. Trước đó con có dâng hai lời nguyện lên Tam Bảo. Hai lời nguyện đều được thực hiện, con an tâm về những người thân trong gia đình, mới bắt đầu lo cho chính bản thân. Hướng về đạo, tức là cắt bớt những ham muốn của đời, lúc ấy, con chưa có suy nghĩ sâu sắc về ý nghĩa của việc ăn chay, chỉ biết “không ăn thịt cá” là một điều dễ dàng. Từ nhỏ, có lần con nằm chiêm bao thấy một con cá trê, nhìn xa thì thấy đầu con cá trê tròn tròn, đen đen; chớp mắt nhìn kỹ lại thì thấy rõ ràng là đầu một người, hai cánh tay bắt chéo ôm trước ngực; chớp mắt nhìn lại thì thấy là đầu con cá trê. Mỗi lần phải cầm một miếng thịt tươi, nhìn màu máu đỏ, trong lòng thấy rờn rợn, vì biết rõ đây là một phần xác chết của con bò, con heo, con gà. Lần lần, con không thể ăn thịt cá ngon miệng nữa. Từ khi con ăn chay, dường như “nghiệp nấu nướng” của con được nhẹ bớt nhiều. Con vẫn lo cơm nước cho cả gia đình như trước, nhưng lần lần cả gia đình ăn uống dễ dãi hơn, nấu thức gì cũng ăn được, không còn chê mặn, lạt, nóng hay nguội nữa... mặc dù con không nêm nếm kỹ như khi xưa.
Như con đã nói, từ đây con bắt đầu tu tập, một mình. Buổi sáng, dành chút ít thì giờ lễ Phật, sám hối, đọc vài trang kinh trước bàn Phật, mỗi tối dành chút ít thì giờ, trước khi đi ngủ, để đọc kinh sách, nghiền ngẫm nghĩa lý. Đời sống của con chỉ thu hẹp trong gia đình, dòng sông vẫn miên man chảy xuôi, không có gió đời thổi đến, nhưng đã thấy thấp thoáng bóng đen của Vô thường. Đến cuối năm 1995, sau những tháng ngày dài nặng trĩu, cuối cùng định mệnh đã gỏ cửa, hai người thân lần lượt ra đi. Mất mẹ là mất tất cả; đối với người con gái, mẹ không những là cánh tay êm bảo bọc trìu mến khi con còn thơ dại, mẹ còn là người tri âm tri kỷ cùng vui cùng buồn với đứa con gái khi nó đã lớn khôn; khi mẹ buồn, con an ủi; khi con buồn, mẹ an ủi; con khổ, mẹ thở dài; mẹ không vui, con thao thức; mẹ và con gái, hai thế hệ mà cũng chỉ một dòng sầu.
Những tháng ngày này, chỉ có những giọt nước mắt thầm, trong đêm, không ai biết; không có nụ cười, chỉ có tiếng cười gượng gạo khô khan. Con thấm thía câu ca dao:
“Lan huệ sầu ai, lan huệ héo ?
Lan huệ sầu đời, trong héo ngoài tươi.”
Và câu thơ của Nguyễn Du:
“Vui là vui gượng kẻo mà,
Ai tri âm đó, mặn mà với ai ?”
Cho đến khi con lên Oregon để dự lớp Thiền vào tháng 7- 1996, con vẫn gầy gò ốm yếu, chỉ có 85 lbs., da xanh mét, cằn cỗi vì từ lâu quên cười. Nhiều lúc con cũng lấy làm lạ: tại sao mình thay đổi quá nhiều. Khi còn ở trung học, mấy đứa bạn thân vẫn gọi đùa mình là “cây cười của lớp.” Khi ra dạy học, là một cô giáo được nhiều học trò thương mến, lúc nào cũng tươi. Vậy mà giờ đây, muốn nở một nụ cười, sao khó quá.
Khi con quyết định xin học Thiền với Thầy, dòng sông đời của con bắt đầu đổi hướng. Trong ba tháng tu học, vừa thâm nhập giáo nghĩa, vừa hạ thủ công phu dưới sự chăm sóc, hướng dẫn trực tiếp của Thầy, con lần lần chuyển hóa nội tâm, chuyển đổi nhận thức cũ. Trong bài trình này, con không kể lại sự kiện “một đêm chủ nhật của năm 1995, Tánh Giác của con đã tung ra những kiến giải mới lạ”; sự kiện đó lúc bấy giờ chỉ như những ngọn pháo bông tung bay rực rỡ giữa khung trời bao la tối thẫm. Pháo bông tàn thì bầu trời trở lại thâm u. Niềm vui mừng âm thầm có lan tỏa, kéo dài cũng một vài tuần sau, có thấm gì trong những ngày tháng đó, là những ngày dài nhất của một đời người.
Lúc ấy, con biết mình có một tiềm năng sáng suốt, nhưng nó cũng chỉ như một tia sáng lóe lên ở cuối con đường hầm dài mịt mù; còn trí huệ mãi sau này mới từ từ phát triển chút ít theo sức dụng công. Tuy nhiên, dù là những tia pháo bông vừa tung ra đã tắt, dù là một tia sáng cuối đường hầm vừa lóe đã tàn, nó đã là nguồn sinh lực tiềm tàng nâng đỡ con mỗi khi con muốn gục ngã.
Ba tháng Hạ đầu tiên của con, tức là khóa II- 1996, đã thay đổi nội tâm con nhiều. Đây là lần đầu tiên trong đời, con sống xa nhà, tạm cắt hết những nhân duyên với đời, như: các con, anh em, bạn bè, bà con, việc làm, nhà cửa, điện thoại, T.V...Trong lòng con lúc ấy, thật là nhẹ nhàng, thảnh thơi, không buồn nhớ quá khứ, không mơ tưởng tương lai, không lo lắng gì cho hiện tại, ngày đêm chỉ thực tập pháp: “Không định danh đối tượng.” Mỗi khi lách vào chỗ vô niệm, đầu trống rỗng, nhẹ nhàng, thân cũng như tan biến trong hư vô, chỉ còn cái Biết Không Lời rõ ràng.
Con còn nhớ cái kỷ niệm “chua cay” của mùa Hạ đó. Thường sau thời ngồi thiền buổi tối, chúng con xả thiền, thở nội lực xong, ai có điều gì cần thưa hỏi, Thầy sẵn sàng giải đáp. Một lần, con ngớ ngẩn hỏi: “Thưa Thầy, con đọc trong một quyển sách nào đó nói đến “Mặt trăng thứ hai và mặt trăng thứ ba”. Mặt trăng thứ hai là gì ? Mặt trăng thứ ba là gì ?” Thầy mở lớn mắt nhìn thẳng con, rồi bất thần dơ chân đá bay cái gối ngồi thiền bên cạnh con. Con sửng sốt, ngồi im, mà nghe đau. Sau đó, Thầy mới nói: “Lúc này là lúc dụng công dẹp quán tính suy nghĩ, sao còn vướng mắc tri kiến thế gian ?” Từ đó, con không còn băn khoăn về cái “rừng ngôn ngữ” nữa.
Những buổi chiều, nơi thiền thất ở Beaverton (Oregon), khi rảnh rỗi, con ưa ngồi ở hàng hiên trước, nhìn ra sân, hàng cây cao, những cánh chim bay và khoảng trời xa xa trước mặt, con dụng công: thấy, biết, mà không có lời nói thầm trong não. Những lúc đó, tâm thực sự an vui, tạm thời rũ bỏ những phiền muộn của quãng thời gian vừa qua. Có một buổi chiều kia, con chợt nhận ra một điều mà từ lâu con không thấy, đó là nơi đây, đất nước này, cũng có những buổi chiều rất đẹp, những buổi chiều rơi êm ả, thảnh thơi, tia sáng hồng hồng, không gian yên tĩnh; giống như những buổi chiều thanh bình xa xưa nơi quê nhà. Cùng lúc ấy, con cũng nhận ra dòng sông đời mấy mươi năm của con đã trôi qua mất, như một giấc chiêm bao mà thôi. Giờ đây, con vẫn là một cô học trò ngày ngày nghe giảng bài, ghi chép, học hiểu và thực hành, vui cười bên những người bạn mới quen; nhiều lúc vô tư không nhớ gì đến quá khứ đau buồn, cũng không có thì giờ lo nghĩ đến tương lai xa xôi; ngày ngày chỉ nhớ lách vào chỗ vô niệm, thân nhẹ nhàng, tâm trống rỗng thảnh thơi.
Ngay trong mùa Hạ thứ nhất này, con đã nhận thấy sự ích lợi to tát của khóa Nhập Thất liên tục 3 tháng. Nó có ảnh hưởng sâu đậm trong tâm con. Và những biểu lộ ra bên ngoài rất rõ nét mà chính con cũng nhìn thấy. Thân khỏe mạnh hơn, lên cân mặc dù vẫn là ăn chay đạm bạc, sắc da không còn xanh mét nữa, thường vui vẻ, dễ cười.
Trong quãng thời gian này, tâm tư con đột nhiên trở lại tươi mát, như hồi còn nhỏ, hay làm thơ. Những lời thơ đột nhiên tuôn ra, không ngăn cản được. Con biết là mình đi “trật đường rầy” rồi ! Thầy dạy “Bước vào chỗ vô niệm”, mình lại tuôn ra niệm ! Đây là bài thơ thứ nhất, tuôn ra khi gần xả thiền, trong thời thiền xế chiều tháng 8 ở Beaverton:
MƯA NƠI THIỀN VIỆN
Ta đã bước vào nơi tĩnh lặng,
Không còn thân, ý, cũng không tâm,
Dòng biết không lời miên man chảy,
Dòng đời êm ái cũng về không.
Bên ngoài gió thổi mưa bay tới,
Rào rào nhỏ giọt, giọt mưa thu...

Khi xưa ta sẽ ưu phiền,
Bây giờ chỉ biết triền miên “không lời,”
Trong lòng ấm cúng, thảnh thơi,
Gió mưa, mưa gió, chẳng rơi vào lòng.

Chiều nay con xin Thầy tha thứ,
Đã dám làm thơ lúc tọa thiền.
Những lời này cho con biết con đường mà con đang bắt đầu đi, nó thích hợp với con. Trong bước đầu nó đã giúp con thắng được tâm buồn chán. Từ đó, con hay lách vào chỗ vô niệm để hóa giải ưu phiền. Mấy câu thơ sau đây cũng nói lên tâm trạng của con lúc đó: “phải vượt qua dòng tuôn chảy của thơ”:
CẢM ĐỀ
Bao năm qua mải miết cõi u buồn,
Nước mắt và thơ nghe chừng đã cạn,
Bỗng giờ đây, thơ từ đâu lai láng ?
Chiến thắng mình, thôi lập tức vô ngôn.
Những ngày cuối khóa học, là thời điểm bận rộn, phải xem lại bài vở để chuẩn bị cho kỳ trắc nghiệm, viết bài trình mãn khóa; vậy mà một đêm kia, khi cùng một người bạn mang rác ra quăng ở thùng rác chung, trên đoạn đường thanh vắng, hai đứa bảo nhau cùng đi trong vô ngôn. Ngước nhìn lên bầu trời cao xanh thẫm, ánh trăng sáng vằng vặc mới biết là Trung Thu. Mấy ngày sau còn nhớ sắc trăng đêm ấy, con cảm hứng lại làm thơ:
NHỮNG NGÀY CUỐI KHÓA NƠI THIỀN VIỆN
Đêm nay chẳng biết có trăng không ?
Mà sao trăng sáng quá trong lòng.
Bốn mươi chín năm trời xưa ai chỉ ?
Bây giờ Thầy cũng chỉ Tâm Không.

Đêm nay còn gặp, mai ly biệt,
Mỗi đời êm ả chảy như sông,
Cuối cùng sông cũng xuôi ra biển,
Cuối cùng mình cũng trở về không.

Cửa khôngcửa không có cửa,
Trung đạo là đường đi không đường,
Tâm không đâu phải không tâm có,
Có không nào đâu phải thật không.

Thơ con vẫn còn chưa giải thoát,
Không phải trình kiến giải Thầy ơi,
Con biết Thầy sẽ cười cười,
Mắt môi rạng rỡ một trời bao dung.

Mai này dầu ở tha phương,
Cũng dâng một nén tâm hương vọng về.
Mai này huynh đệ chia ly,
Như đàn chim nhỏ tung đi khắp trời,
Dù cho dứt vọng, bặt lời,
Cũng xin chút nhớ cho người Cali.
Niềm vui trong thời gian nhập thất này phai bớt đi khi con hết khóa học, trở về nhà, lặp lại đời sống thường nhật, nối lại những dây quan hệ cũ. Trở về đời, dòng sông trở lại mờ đục lặng lờ, tuy đã nhìn thấy con đường mình phải tiếp tục đi, nhưng sóng gió bắt đầu thổi tới.
Khi nhìn lại ngôi nhà mình đã xa vắng ba tháng, có một cái gì là lạ, bỡ ngỡ trong tâm. Kìa là chậu trúc héo khô, bụi trúc trồng trong chậu nhỏ nên chỉ cao có mấy tấc. Cây liễu ngày trước mình ngắt một khúc ngắn ở chùa Việt Nam, đem về để trong ly nước không ngờ sau đó mọc rễ con. Mình thương quá đem trồng trong chậu nâng niu tưới nước mỗi ngày; khi nó lớn, mình sang qua một chậu lớn hơn, bây giờ đã cao hơn đầu mình, mùa xuân ra lá non xanh mướt, thướt tha rủ xuống, đong đưa trong gió. Bây giờ là mùa thu, lá đã rụng, chỉ trơ cành khẳng khiu, cầu mong không phải đã chết. Bốn cây đào ở sân trước lại sum sê, tàng lá bắt đầu đổi màu để cuối mùa thu sẽ rụng, những nụ hoa non đã bắt đầu nhú ra. Bước vào nhà, bàn ghế dường như đã không còn y chỗ cũ, nhìn ba cái bàn chải đánh răng, ngẩn ngơ không biết cái nào của mình. Nhớ tới người bạn thân, cầm điện thoại lên, mấy lần lại để xuống, không thể nhớ nổi bảy con số quen thuộc nằm lòng ngày trước, phải đi kiếm lại cuốn sổ nhỏ ghi điện thoại mới liên lạc được. Câu chuyện vẫn dòn tan, nhưng dường như mình không còn hứng thú nghe kể những chuyện đời vui ít buồn nhiều nữa; còn khi mình kể những ngày tháng tu tập an lạc thảnh thơi, dường như người nghe một cách hững hờ.
Kính thưa Thầy,
Lúc ấy, con biết là con đã khác trước, tâm tình không còn y là tâm tình cũ, cả dáng dấp thần sắc bên ngoài. Con lại điện thoại đến người bạn tu thân thiết từ xưa nay, mong nối tiếp dây thân ái. Trong lòng náo nức, biết bao điều hay đã học hỏi, muốn chia bớt cho. Người bạn đến nhà thăm một lần, nghe kể những kinh nghiệm tu, rồi ra về, sau lại còn chê bai, đả kích; từ đó không trở lại nữa. Chỉ trong có một tuần lễ đầu, tính từ ngày mãn khóa, tâm tư con bị xúc động: con nhớ tới những ngày tháng ở thiền viện, sao mà an vui, sao mà nhẹ nhàng ấm cúng; còn sống trong đời, đông đảo rộn rịp, nhưng sao lạt lẽo, cô đơn.
Trong tuần lễ này, con chợt nhớ đến Lưu Thần và Nguyễn Triệu, cùng Từ Thức, ba kẻ được diễm phúc sống ở cõi Tiên một thời gian, sau lại trở về trần, cảm giác thất vọng, ngỡ ngàng, xa lạ chắc cũng mường tượng như con lúc đó.
Con có ghi lại những xúc cảm đó trong mấy câu sau đây:

XUỐNG NÚI
Rằng xưa có gả từ quan,
Lên non tìm động hoa vàng ẩn tu.
Trăm ngày lá rụng mùa thu,
Tâm không, một đóa vô ưu, trở về.
Ngỡ ngàng đường cũ chân đi,
Cỏ hoa còn lạ, huống gì người xưa.
Một ngày là mấy nắng mưa,
Trăm ngày chốn ấy cũng vừa trăm năm.
Dòng đời cuộn chảy âm thầm,
Mình ta đứng đó tần ngần trông ai.
Người ta tất cả đổi thay,
Hay mình thay đổi, mình nay đứng dừng.
Mừng mừng kìa hỡi cố nhân,
Hay đâu thăm hỏi một lần rồi thôi.
Đường tu tẻ lối chia đôi,
Bạn bè đâu cả, không ai, ngậm ngùi.
Này đây là đóa vô ưu,
Này đây vô giá bảo châu tặng người.
Đời nghe, đời chỉ mĩm cười,
Đời nghe, đời chỉ mĩm cười dửng dưng.

Nhớ xưa có gả từ quan,
Lên non tìm lại hoa vàng ngủ say.
Nhớ xưa lời nói của Thầy,
Con nay mới hiểu được Thầy, Thầy ơi.
Nếu không duyên hóa độ người,
Thì thôi, xin quyết một đời ẩn tu.
(7-10-1996)
Tâm trạng này, mãi sáu tháng sau con mới hóa giải được. Một đêm kia, con thức giấc nửa khuya, ý thơ tuôn ra, con ghi lại, thành đoạn thứ II, tiếp đoạn trên:
Đêm nay chợt tỉnh giấc đời,
Trong lòng cũng có đất trời vào xuân.
Mới hay đâu gả từ quan,
Mới hay đâu có hoa vàng mà say.
Trăm năm hay chỉ một ngày,
Cố nhân, hay chẳng là ai, là mình.
Bạn bè bốn cõi mông mênh,
Làm sao mà được một mình ẩn tu.
Cái gì là đóa vô ưu,
Cái gì vô giá bảo châu tặng người
Đời nghe đời chẳng mĩm cười,
Đời nghe đời chẳng mĩm cười dửng dưng.
Sao còn có phút mừng mừng,
Làm sao dám nói đứng dừng với ai.
Ngỡ tay cầm đóa vô ưu,
Giật mình: lòng vẫn ngậm ngùi bâng khuâng.
Làm sao lại có tâm không,
Ở đâu mà chảy mấy dòng thơ si.
(31-3- 1997)
Trận gió chê bai chưa dừng, thì gió vô thường một lần nữa thổi tới. Đêm giao thừa năm đó là đêm thứ nhất ba con vào bệnh viện. Ba tháng liền, chiều chiều, nhìn thấy thực tại “già, bệnh, chết” trải dài trước mắt, đủ thứ đau, đủ loại khổ, đủ hạng người, cái quyết tâm tu lại càng vững chắc. Con nhớ người xưa có nhắc: phải thấy cái sinh tử như lửa cháy ngang mày, không chần chờ, hẹn lần lữa ... Hai ngọn gió thế gian này đã là hai nấc thang để cho con bước lên, vượt qua.
Nhưng biển đời có bao giờ yên, sóng gió của tâm vọng động lại nổi dậy. Sự kiện này con đã kể rõ trong bài trình thứ nhất. Nhờ con bị bế tắc vì bị tấn công nhiều phía, mà suy nghĩ, trí năng không giải quyết được, nên “kho châu báu của con” mới hất ra cho con hai chữ “Vô Tác”. Từ đó, mấy chữ Vô Tác, Vô Nguyện như là chiếc thuyền chở tâm con xuôi dòng.
Nhờ vậy, con có một kinh nghiệm mới: một hôm, nhìn tận mặt thực tại, con nhận ra rằng thực tại thì vô tư, khách quan, còn vui hay buồn là do tâm mình. Con ghi lại trong mấy câu sau:

MƯA XUÂN
Sáng nay từ tạ trở về,
Bận đi nắng đổ, bận về mưa tuôn.
Lặng nhìn từng giọt mưa trong,
Ngẩn ngơ sao có xuân hồng, xuân xanh ?
Giọt mưa không giác, không tình,
Sao mưa xao xuyến được tình thế nhân ?
Giọt mưa trong vắt, trong ngần,
Sao mưa không lấm bụi trần, mưa ơi.
Trong mưa, lá thắm, hoa cười,
Trong mưa, cũng thấy đất trời như không.

Chiều nay, mới biết mưa trong,
Chiều nay, cũng biết xuân trong, trong ngần.
Ngày 9- 8- 97, khai giảng khoá III, lớp 1; đồng thời là khóa Hạ mở cho khóa giáo thọ sơ cấp đầu tiên. Đã rủ bỏ hết những phiền muộn trong lòng, con lại thảnh thơi nhập thất. Thời khóa ngồi thiền nghiêm nhặt, mỗi ngày bốn thời, tổng cộng sáu tiếng rưỡi. Ngoài ra, có giờ thiền hành, giờ học thêm giáo lý căn bảnlý thuyết Thiền. Thời khóa cứng ngắt, không có giờ rảnh, tuy nhiên con và các bạn vẫn vui cười, vẫn thấy thoải mái, những tràng cười ha ha không có lý do cứ vang lên từng chập trong những phút rảnh rỗi phù du. Bây giờ nhìn lại, con biết đó là trạng thái tâm hỷ lạc, do công phu miên mật, biết phương cách bước vào vô niệm, bắt đầu dừng được vọng tưởng. Ba tháng ròng rã khép vào khuôn: ăn, ngủ, dụng công, học tập, đi đứng đều theo đúng giờ giấc, đúng nội qui, con tự thấy có khá hơn một chút. Tâm tư thì hoàn toàn rẽ qua một khúc quanh mới: không còn buồn phiền vì những sóng gió đã qua, trái lại còn quá vui là khác, niềm vui không có gốc rễ, không cần lý do, chỉ một lời nói diễu, một cử chỉ làm hề là những tràng ha ha nổi lên. Tuy nhiên giờ học tập vẫn trang nghiêm tề chỉnh, thời ngồi thiền vẫn cẩn mật.
Một điểm lạ trong thời gian này là: tâm thơ thới vui vẻ, yêu đời, nhưng sao nguồn thơ lại cạn, con không còn cảm hứng làm thơ. Và bắt đầu từ đây về sau, con không làm thơ được nữa. Con nghĩ chắc là từ công phu dừng niệm, nó đóng luôn cửa trí năng, suy nghĩ, tưởng tượng, xúc cảm... nên không còn thơ thẩn nữa.
Mãn Hạ, nghỉ ngơi ba tháng, mồng 4 Tết- 1998, thầy khai giảng lớp 2 của khóa III. Con lại xin học dự thính, bổ túc những hiểu biết về Thiền và các chiêu thức dụng công mới.
Từ ngày 24-5-1998 đến 15-8-1998, Thầy mở Khóa Hạ, đồng thời với khóa IV. Con lại một lần nữa nhập hạ ba tháng. Quãng thời gian này, dường như tâm tình con đang lần lần chuyển đổi. Cũng tọa thiền, cũng thiền hành, cũng học thêm lý thuyết, cùng với ba cô bạn đạo nhiệt tâm, hiền lành, sống chung hòa hợp, mỗi ngày bốn chị em học tập, thảo luận, chia sẻ kinh nghiệm dụng công; cũng vui vẻ, thảnh thơi; nhưng sao không còn những tràng cười ha ha nữa. Niềm vui bây giờ như lắng sâu hơn, trầm lặng hơn, đằm thắm hơn, nó phảng phất trong không khí, nó lan tỏa nhè nhẹ. Niềm vui trong khóa hạ năm trước nồng nhiệt, rộn rực, hời hợt, như ngọn lửa rơm bùng lên, thành những tràng cười, cười chỉ để mà cười. Bây giờ con lần lần ít nói, ít cười hơn trước. Một điều thay đổi tự nhiên, không phải vì hoàn cảnh. So lại với lần Hạ trước, hoàn cảnh bây giờ chỉ là những cơn gió đời bình thường, nghĩa là chuyện thị phi nhỏ nhặt, lúc nào cũng có, chớ không có mặt Tử thần. Có lần, Thầy hỏi: Con đã trốc gốc chưa? Con thưa: Gió vô thường, con còn chưa trốc gốc. Câu nói này có vẻ ngang tàng, nhưng đó là tâm con. Từ lần, con đã nhìn thấy rõ tâm mình cũng như tâm người. Nghe một câu nói, con biết người đó còn ở trong vọng tâm, mức độ điên đảo nhiều hay ít, công phu miên mật hay không, chuyển đổi tâm hay hoàn toàn chưa. Nghe một câu nói, con biết sau này người này sẽ là đầu mối của thị phi, con cẩn thận, nhưng rồi chuyện cũng xảy ra. Nhờ đó con có một nhận định về nhân quả. Đã biết trước quả, mà không tránh được; đó là vì con chỉ sửa đổi cái duyên, khi con cẩn thận lời nói; còn cái nhân, là tâm của người, không sửa đổi được, nên quả cũng tới. Tuy nhiên, quả tới mà mình không nhận thì cũng không ảnh hưởng tới mình.
Nhờ có nhiều chuyện xảy tới cho con mà con nhìn thấy tâm mình rõ hơn; đồng thời giúp con rèn luyện hạnh nhẫn nhục. Con xin nói thêm về một kinh nghiệm nhẫn nhục. Thầy giao cuốn Tự Điển Thiền Dụng Yếu Lược cho con dò chính tả, sửa kiểu chữ thích hợp: chữ đậm, chữ thường, chữ hoa, chữ nhỏ, chữ nghiêng, chữ đứng, chuyển vị trí các từ nếu có sai, đánh dấu phết, chấm câu cho đúng v.v... Tất cả làm trên máy computer. Từ một người hoàn toàn không biết gì về computer, con kiên nhẫn học từ từ qua sự chỉ dạy của Thầy và các bạn. Con rị mọ làm liên tục gần một tháng, trong khi nhập hạ, có khi phải bỏ thời ngồi thiền. Vậy mà một hôm, công trình bổng nhiên bị xóa mất vì một sơ xuất kỹ thuật của một người bạn. Lúc ấy, con buồn phiền quá đổi mà không thể nói ra được, con rán nhẫn nhục; tim con bỗng nhiên đập nhanh hơn bình thường, đo thấy áp suất máu lên. Con tưởng mình bị bệnh, đi bác sĩ. Sau đó, con thường xuyên ngồi thiền, thư giãn. Bình tâm suy nghĩ, biết người bạn không phải cố ý, trong lòng nhẹ nhàng đôi chút, bây giờ bắt đầu làm lại, mình có dịp đọc đi đọc lại thêm nhiều lần nữa càng giúp mình thêm kiến thức; hơn nữa, trong khi làm việc, mình không có tạp niệm, cũng là đang dụng công thôi. Từ đó, con khỏe mạnh trở lại như bình thường. Do đó con có nhận địnhnhẫn nhục mà có ưu phiền thì sẽ ảnh hưởng tới sức khỏe, nên Phật mới dạy: nhẫn nhục ba la mật. Trường hợp con chỉ là nhẫn nhục không ưu phiền nhờ quán chiếu. Đó cũng là một bước thắng được tự ngã: con không có nổi niệm sân, vượt qua được buồn phiền, có thêm một kinh nghiệm.
Con xin kể thêm một kinh nghiệm soi lại tâm mình. Trong chánh điện của thiền viện có một tấm bảng giấy khổ lớn, ghi tên những người có đóng góp tịnh tài hàng tháng để chi phí duy trì thiền viện. Mỗi tháng lại thêm những lằn gạch mực đỏ nổi bật; ai bước tới chánh điện đều trông thấy rõ ràng. Lúc đầu, con không để ý tới nó, vì con biết không có tên mình thì coi làm gì. Có một hôm, ngoài buổi học nên chánh điện vắng, con rảnh rỗi đến đọc từng tên, trong lòng không thấy có niệm gì khác lạ, để ý nhìn coi có mặc cảm tự ty hay không, coi mình có một chút buồn hay bực bội gì hay không, coi mình có ganh tỵ hay không, không có, chỉ có một chút mừng vì có nhiều người phát tâm làm Phật sự, một chút mừng vì Thầy có nhiều đệ tử ủng hộ. Về sau, con vẫn thường đọc đi đọc lại “tấm bảng vàng công đức” này, và thấy tâm mình vẫn vui, bình thản, không gợn sóng.
Kính thưa Thầy,
Mấy tháng sau này, con biết tâm con chuyển đổi từ từ, trở thành trầm hơn, trong lòng vẫn vui, thảnh thơi, nhưng không còn vui sôi nổi, rộn rã, đùa giỡn, như mùa hạ 97 nữa. Những chuyện vui hay buồn xảy tới cho con, bất quá như là những làn gió nhẹ làm xao động mặt nước lăn tăn, gió hết hay không thì dòng sông cũng vẫn êm đềm xuôi chảy. Viên ngọc như ý của con vẫn lấp lánh dưới đáy sông, thỉnh thoảng tung cho con một quả banh chớp nhoáng, con chụp lấy và hưởng dụng, giống như hồi trẻ, chơi bóng rổ trong trường. Khi nó chưa tung banh tới, thì con và nó là hai. Khi con chụp được quả banh trong tay rồi, thì con với nó là một. Bây giờ thời gian là hai nhiều hơn là một. Nhưng lần lần con thấy nó quen thuộc với con hơn trước. Nó không đòi hỏi điều kiện gắt gao là phải có nghi vấn, nghi tình, và suy nghĩ hay trí năng bế tắc, nó mới tung banh ra. Có khi cả tháng, có khi trong tuần, có khi cách vài ngày, là con có một nhận định mới lạ. Như bài trình thứ ba này, trong khi con viết bài trình thứ hai, con hoàn toàn không nghĩ rằng mình sẽ có thể còn ý gì để viết tiếp nữa. Cho nên khi xong bài trình thứ hai, con đã đệ lên Thầy xem; và yên chí là hai bài trình đã quá đủ. Vậy mà nó lại tung ra cho con bài trình thứ ba này. Trong khi con đang còn viết bài này, nó lại tung cho con thêm một chủ đề mới nữa để bổ túc; đó là Bài trình thứ tư: chủ đề: TRẬN CHIẾN. Là vì con chợt thấy ba bài rồi vẫn chưa trình rõ những chiêu thức dụng công của con, làm sao chiến đấu với Phàm Ngã.

Vừa mới mấy ngày nay, con chợt hiểu một vấn đề, con không thể trình Thầy qua điện thoại viễn liên (Thầy đang ở Oregon), vì nó hơi dài dòng, phức tạp.
Đã từ lâu, con bị vướng mắc vì câu hỏi:
Cái gì đi tái sanh ?
Phật đã khẳng định là không có Ngã, không có cái Ta. Và câu trả lời từ trước đến nay là: Nghiệp thức hay Thần thức đi tái sanh. Câu trả lời quá ngắn, con chưa thỏa mãn. Vì con còn thắc mắc: Vậy cái gì là chủ thể của Nghiệp thức hay Thần thức ? Nếu không chủ thể, vậy Nghiệp thức của người này sao không lẫn với của người khác ? Nếu có chủ thể, thì là có Ngã. Nếu tất cả nghiệp của một người gom lại, đủ nhân duyên, sẽ trở thành người; vậy khối nghiệp này cũng có thể coi là ngã, hay linh hồn ? Nếu có ngã thường còn, vậy tại sao khi chào đời lại không thể nhớ đời trước ? Nhưng nếu không có ngã, sao đời này phải chịu hậu quả của đời trước ? Ai làm và ai chịu ?
Mấy ngày trước, dòng tư tưởng của con đã khởi đầu như thế này:
Một người thích biển, lúc nào rảnh rỗi cũng tìm ra biển chơi; nếu chẳng may chết đi, tâm thức ra khỏi thân, tập khí thích biển sẽ tạo ra những ảo ảnh, ảo giác về biển. Tâm thức mê muội sẽ đi tới biển, và như vậy là rơi vào cảnh giới khác, tức là tái sanh vào bụng mẹ. Ngay lúc này, tâm thức cũ, cùng với tất cả quá khứ đều tắt. Một tâm thức mới sinh ra, những sự kiện của đời trước thì quên, nhưng tập khí cũ của quá khứ thì còn. Chính chỗ này, Phật gọi: “cái bị sanh”. Cái bị sanh ở đây là thân và tâm; tâm này là Vọng tâm. Vậy Chân tâm ở đâu ? Chân tâm không phải là cái bị sanh, khi ta còn mê muội, thì nó ẩn trong Vọng tâm. Vọng tâm bao phủ, che kín nó, nhưng nó không bao giờ mất. Một khi tâm dừng quán tính động của nó thì Chân tâm hiện ra.
Vấn đề gút mắt ở đây là : Tâm thức mới sinh ra, thực chất nó là gì ?
Con hiểu nó không phải là chính cái tâm thức cũ, mà nó là cái QUẢ của những NHÂN trong đời trước. Ngay chỗ này, không hề có cái Ngã nào đi tái sanh. Vậy cái gì làm thành cái dòng liên tục của Nghiệp ? Chính là sợi dây liên hệ giữa Nhân và Quả mà thôi. Ngay chỗ này không hề có cái Ta nào làm và cái Ta đó phải chịu.
Vậy khi ta nói: dòng sống của mỗi người, điều này có nghĩa là dòng liên hệ tất nhiên từ Nhân đến Quả, hay dòng tương tục của Nghiệp và Báo. Đó là qui luật khách quan chi phối vạn pháp. Qui luật này rất vi tế, phức tạp, chằng chịt, nhưng không bao giờ sơ sót, lầm lẫn. Chỉ có CÁI VÔ SANH mới không bị nó chi phối. Tức là tâm khôngđào thải hết lậu hoặc mới không còn luân hồi sanh tử. Vậy không hề có một chúng sanh nào đi lang thang trong dòng luân hồi sanh tử. Mà đó là sự liên hệ tiếp nối của nhân và quả. Nhân trong đời trước ra sao, quả sẽ hiện ra khi đủ duyên hình thành. Quả có thể biến đổi chút ít tùy theo các duyên khác; nhưng vẫn phải có quả. Chỉ khi nào hoàn toàn không có nhân nữa, mới cắt đứt được sợi dây tương tục này.
Và Phật chỉ rõ ba cửa Giải thoát: Không, Vô Tướng, Vô Nguyện. Ai ứng hợp với cửa nào, thì đi cửa đó.
Sau đó, một vài giờ, con có thêm một ý khai triển vấn đề trên:
Một đàng Phật giảng Vô Ngã (mà sau này Phát triển khai triển ra: nhân vô ngãpháp vô ngã), một đàng Phật nói đến thuyết nhân quả nghiệp báo và thuyết sanh tử luân hồi. Như vậy có mâu thuẩn không ? Con thấy rõ là không hề mâu thuẩn.
Nhân vô ngãpháp vô ngã là tất cả các pháp đều có mặt là do nhiều nhân và duyên hợp thành, khi nhân và duyên không còn đủ nữa, thì pháp sẽ tan rã. Không có pháp nào là chắc chắn, cố định, hiện hữu mãi mãi, tức là không có pháp nào có một bản ngã riêng, một thực chất riêng, hay một bản chất riêng, một tự tánh cố định. Như vậy nhân và duyên là những thành phần của pháp. Hơn nữa, ngay chính nhân và duyên cũng do nhiều thành phần hợp nên nó; và những thành phần này cũng lại do nhiều thành phần khác hợp nên. Nếu cứ thắc mắc đi tìm cái thành phần đầu tiên, ta sẽ không bao giờ tìm ra được. Do đó dòng sinh sinh hóa hóa của pháp giớivô thủy và vô chung. Đó cũng là cái dòng tương tục vô thủy vô chung của nhân và quả. Nhân sẽ trở thành quả, quả này lại là nhân cho cái quả tới, cứ thế liên tục mãi không bao giờ ngừng. Chính mối dây tương tục này là dòng sống miên viễn thường hằng của vạn pháp, trong đó gồm luôn con người.
Lúc trước, con nghĩ nông cạn và sai lầm rằng: thân người do 4 đại làm nên: đất, nước, gió, lửa. Thế thôi, con in trí 4 thành phần này đã là những nguyên tố, đầu tiên, căn bản, không còn thắc mắc tìm hiểu gì thêm. Bây giờ thì con đã biết chính đất, nước, gió, lửa, cũng có là do những duyên khác hợp thành mới hiện hữu.
Trên đây, con mới nói sơ về Nhân vô ngãPháp vô ngã. Bây giờ con xin nói về thuyết tái sinhluân hồi. Con nghĩ rằng Phật muốn nhắm đến mục đích quan trọng nhất của Ngài là: DIỆT KHỔ. Quan niệm về tái sinhluân hồi là để làm sáng tỏ hơn Tứ Diệu Đế.
Như con vừa mới trình bày ở phần trên, không có cái Ngã nào hiện hữu, ngay khi tạo ra nghiệp, ngay khi đi tái sinh, và luôn cả khi nhận lãnh quả báo. Tất cả đều thành hìnhtương tục mãi là do sự tương tục của nhân và quả, hay của duyên sinh, duyên khởi. Đối với người, ta thường nói đó là Nghiệp Báo, thuật ngữ này có ý nghĩa phân biệt thiện và ác, lành và dữ, phải và trái... Còn thuật ngữ nhân quả có ý bao quát hơn, gồm luôn các pháp khách quan, loài vô tình, vô tri.
“Không có Ngã”: đó là bản thể của con người. Nhưng khi ta sống, tức là đã ở trong Cái Diệu Dụng. Ta cũng có thể nói cách khác, là hai mặt Tánh và Tướng của vạn pháp. Con có thể nói rõ hơn nữa, ta sống đây tức là ta đang ở trong thế giới tương đối, thế giới hiện tượng...Tứ Diệu Đế đã đặt nền tảng trên thực tại của thế giới hiện tượnglý luận. Vì thế Phật thuyết giảng về Nhân quả, về Tái sinh, về Nghiệp báo. Vì con người tự thấy có mình, có sống thực, có khổ đau thực...nên Phật tùy theo tâm con ngườigiáo hóa.
Kính thưa Thầy,
Trên đây là những bức tranh đơn sơ vẽ lại mấy khúc sông tâm của một đệ tử sơ cơ của Thầy.
Kính bút
Mẹ Và Con Gái

Send comment
Off
Telex
VNI
Your Name
Your email address
Wednesday, January 22, 20254:16 PM(View: 178)
Nhân dịp Xuân về / Kính chúc: Quý Tăng Ni đoàn Tánh Không, ban Điều Hành các đạo tràng, và tất cả thiền sinh Tánh Không cùng gia đình và thân hữu,/ Lời chúc: Bình an, khỏe mạnh, tính tấn, hạnh phúc
Tuesday, January 21, 20253:43 PM(View: 157)
Anfang 2019 hatte ich einen Unfall. Danach hatte ich Schmerzen am Rücken und an der rechten Schulter, ich konnte meinen Arm nicht mehr heben und hatte beim Anziehen meiner Jacke starke Schmerzen im Oberarm. Die Schmerzen blieben zwei Jahre lang und wollten nicht weggehen... Ich habe dann einen Bekannten gefragt, der als Physiotherapeut arbeitet: „Wenn du einen Patienten mit Wirbelsäulenschmerzen behandelst, welchen Teil des Körpers versuchst du dabei zu beeinflussen: Knochen, Muskeln oder Gelenke? Seine Antwort war sehr kurz: „Faszien“.
Thursday, January 16, 20259:52 AM(View: 231)
So long as they could move to the stage of observing the bareness of their mind, theirs turn into empty. Nothing left to talk. In other words, “the continuous current of mind keeps running and running” via many lifespans ends without any trace.
Wednesday, January 8, 202510:38 AM(View: 405)
As usual, the Americans celebrated the New Year of 2025 with the 136th Rose Parade in Pasadena, California on the first day of the year, at 8am PST, Wed, Jan 01, 2025.
Tuesday, January 7, 20259:17 PM(View: 270)
No matter what ups and downs in life, that line of wisdom continues flexibly adapting itself to human life, quietly expanding and offering a source of inner peace and happiness to those who get it. Those metaphors are similar to the image of the crystal spring whose water is always cool and clear and the beginning of spiritual well-beings for humans though stones and gravels are scattering in the current. Hope the next articles in the series be the placid water that I’d warmly dedicate to the Zen practitioners who gather enough conditions.
Tuesday, January 7, 202511:16 AM(View: 821)
Những dấu chân dài dài trên bờ biển Tuy Hòa hôm ấy, những dấu chân chập choạng in trên bãi cát vàng nâu, chỉ một thoáng, sóng trắng xóa tung tăng tràn vào, rồi rút lui ra biển, còn lại gì đâu, mặt cát phẳng lì, dấu chân biến mất. Nhưng kìa, ta lại bước đi, dấu chân lại in trên cát, và rồi sóng biển tràn vào, bãi cát phẳng lì, ta vẫn cứ đi, mãi mãi là người đi một mình, không để lại dấu vết.
Thursday, January 2, 20256:31 PM(View: 294)
Hôm nay ngày 29/12/2024 nhằm ngày 29/11 năm Giáp Thìn, Tưởng niệm ngày Thầy xa chúng con tròn năm năm. Chúng con đồng quy tụ về đây thành tâm đảnh lễ Phật, Tổ và Thầy một vị Ân Sư tôn kính. Lời tri ân của chúng con xin được thay thế bằng sự cố gắng tu tập theo đúng Chánh pháp. Nguyện sống sau cho xứng đáng là đệ tử của Thầy.
Thursday, December 19, 20249:32 PM(View: 587)
Do vậy, chúng ta có thể nói, tuệ trí (insight) là nền tảng của tiến trình tu tập của mình từ bước đầu, nó sẽ phát huy năng lực sâu sắc hoàn chỉnh lần tới Tuệ bát nhã (wisdom) và Tuệ bát nhã siêu vượt hơn cho tới vô biên.
Wednesday, December 11, 20241:10 PM(View: 411)
Qui ouvre les portes du paradis ou de l’enfer? C'est nous, c'est notre choix. Nous sommes maîtres de notre vie. Rappelons-nous toujours cela. Le flux de la vie est toujours le même depuis la nuit des temps. Comment nous voyons la vie? Quelles expériences retenons-nous de notre vie? Ce sont celles que nous voyons, celles que nous aimons, celles que nous voulons, celles que nous choisissons.
Tuesday, December 10, 20247:02 PM(View: 820)
Do đó nếu không có đức Phật chỉ dạy phương thức tu học (ý nghĩa thứ 2 của Pháp) thì mãi mãi hiện tượng chỉ là hiện tượng, chúng ta không thể nhận ra những bản thể (ý nghĩa thứ 1 của Pháp) ẩn tàng bên trong hiện tượng (ý nghĩa thứ 3 của Pháp).
Monday, December 9, 20249:11 PM(View: 358)
Pháp tu “Tứ Chánh Cần” gồm bốn điều cần tu tập. Hai điều nhằm đoạn trừ pháp Ác và hai điều xiển dương pháp Thiện, nên hành giả cần có tuệ trí phân biệt thế nào là Thiện pháp, thế nào là Ác pháp.
Wednesday, December 4, 20248:41 AM(View: 479)
Juste une observation pure, ouvrir les yeux et percevoir l'objet tel qu'il est. Que ce soit, en conscience verbale ou non verbale, l’esprit reste pur, calme et objectif. Il s’agit du mental vrai, dans lequel les préceptes, la contemplation, le samatha, le samadhi et la sagesse sont pleinement présents.
Sunday, December 1, 202412:43 PM(View: 353)
Erhabener, ich gebe meinen Geist auf und lebe nach dem Geist dieser Ehrwürdigen. Erhabener, obwohl wir verschiedene Körper haben, haben wir den denselben Geist.
Thursday, November 14, 20247:03 AM(View: 675)
Q.H, Đạo tràng Paris rút tỉa, sắp xếp, cắt dán lại những thuật ngữ Thiền từ các sách mà Thầy đã xuất bản - Trương Đăng Hiếu, Đạo tràng Nam Cali đánh máy, trình bày lại để làm tư liệu Anh chị thiền sinh cùng nhau tu học.
Tuesday, November 12, 20246:43 AM(View: 818)
Il est normal, naturel et raisonnable que des phénomènes apparaissent, changent et se terminent. Si nous pouvions comprendre cela, lorsque quelque chose apparaît ou disparaît, nous ne serions ni heureux ni tristes. Notre esprit est alors serein et paisible.
Sunday, November 10, 20244:35 PM(View: 659)
Đức Phật dạy khi một trong các loại tâm xuất hiện, chúng ta không làm gì khác, ngoài việc ghi nhận, quan sát, biết rõ sự hiện diện của nó mà thôi! Khi quan sát mà trong tâm không khởi lên bất cứ một ý nghĩ nào khác thì lúc đó hành giả đang trú trong tự tánh, tức tướng thật của tâm.
Sunday, November 3, 20249:06 AM(View: 613)
Wenn man den Titel dieses Artikels liest, denkt man vielleicht, dass er zu hochtrabend, umfassend und unrealistisch ist. Es stimmt, man kann dieses Thema nicht auf wenigen Seiten darstellen. Deshalb möchte ich mich heute nur auf „Die vier Grundlagen der Sympathie“ (catursaṃgrahavastu) aus buddhistischer Sichtweise beschränken und wie wir sie in unserem alltäglichen Leben umsetzen können.
Wednesday, October 23, 202411:29 AM(View: 757)
VIDEO TƯỞNG NIỆM & HÌNH ẢNH Lễ CUNG RƯỚC TRÀ TỲ Thầy THÍCH KHÔNG NHƯ về Tổ Đình Thiền Viện Tánh Không tại Tổ Đình ngày 20 THÁNG 10, 2024
Tuesday, October 15, 20245:01 PM(View: 956)
Học Phật, chúng ta thấy Ngũ căn-ngũ lực là năm yếu tố căn bản, năm yếu tố cốt lõi trên con đường tu học, mà đức Phật đã dạy cho một kẻ phàm phu mới bắt đầu, cho đến khi kết thúc trở thành bậc Vô học (A-la-hán).
Wednesday, October 9, 202411:55 AM(View: 969)
Trích từ sách Luận Giảng Vấn Đáp về THIỀN và KIẾN THỨC THỜI ĐẠI của HT Thích Thông Triệt (2014) Luận giảng số 9
Monday, October 7, 20248:46 AM(View: 1095)
Le contenu de la retraite de cette année est principalement un résumé des thèmes centraux du zen bouddhiste, de la première à la dernière étape. Chaque année, la retraite accueille de nouveaux participants, mais la plupart d'entre eux sont des méditants chevronnés, qui ont parfois 10 ou 15 ans de pratique ou plus. L'enseignement devait donc répondre aux exigences de chaque niveau d'apprentissage.
Friday, September 27, 20243:30 PM(View: 971)
Das Dharmator ist das Tor zum Eintreten, um zu lernen, zu verstehen und zu praktizieren vom Dharma. Der Dharma ist die Wahrheit, wie auch alle Phänomene der Welt. Demnach können wir uns zwei verschiedene Dinge vorstellen. Nein, sie sind nicht verschieden. Die Wahrheit wird durch jedes weltliche Phänomen offenbart, und jedes weltliche Phänomen ist die Wahrheit. Das Selbst ist auch die Wahrheit, und die Wahrheit offenbart sich auch durch das Selbst. Das Selbst ist auch die volle Wahrheit. Alle sind gleich: sie sind alle vergänglich, sie sind alle selbstlos, sie sind alle bedingt, sie sind alle leer, sie sind alle wie Illusionen, sie sind alle wie Unbeweglichkeit. Sie sind alle ungeboren, also unsterblich.
Friday, September 27, 202410:34 AM(View: 835)
Ni Sư Thích Nữ Triệt Như KHÓA TU 3 NGÀY CỦA ĐẠO TRÀNG MONTREAL tại Chùa Địa Tạng ngày 16 tháng 6, 2024 (phần 2/2)
Tuesday, September 24, 202410:34 AM(View: 1155)
Ni Sư Thích Nữ Triệt Như KHÓA TU 3 NGÀY CỦA ĐẠO TRÀNG MONTREAL tại Chùa Địa Tạng ngày 15 tháng 6, 2024 (phần 1/2)
Wednesday, September 18, 20246:59 PM(View: 1303)
VIDEO: Khóa nhập thất song ngữ Việt- Pháp tại trung tâm Vaumarcus THỤY SỸ từ 18 đến 24 /8/ 2024 / Thực hiện Kim Thoa - Giọng ca Kim Mai
Friday, September 13, 20248:36 AM(View: 1244)
La sangha de Paris a été créée très tôt, il y a environ 21 ans, la plupart des membres étaient des méditants chevronnés qui avaient étudié directement avec le Maître Fondateur. Sachant cela, chaque année, comme d'habitude, je m'y rendais avec la simple intention de leur rendre visite.
Monday, September 9, 20241:38 PM(View: 1205)
Dans l'immensité de la mer, Il existe une petite île. Au lieu de s'y réfugier, Nous nous accrochons aux écumes...
Thursday, September 5, 20247:55 PM(View: 1065)
Quán các cảm thọ, là quan sát, ghi nhận sự sanh khởi của Thọ uẩn: Đây là Thọ khổ, đây là Thọ lạc, đây là Thọ xả, đây là Thọ liên hệ vật chất, đây là Thọ không liên hệ vật chất. Niệm Thọ để thấy tính sanh diệt, vô thường, khổ, vô ngã của Thọ uẩn...
Wednesday, August 28, 202410:43 AM(View: 1143)
Những đo đạt sau cùng của Thiền sư Thích Thông Triệt đã được thực hiện vào ngày 8 và 9 tháng 6 năm 2013. Tôi tường trình ở đây một số kết quả từ những thực nghiệm này kết hợp với kỹ thuật chụp ảnh chức năng cộng hưởng từ (f-MRI) và điện não đồ (EEG, 256 channels).
Wednesday, August 21, 20248:40 AM(View: 1190)
La retraite de cette année à Toronto a réuni de nombreux méditants chevronnés y participent. Je sais qu'ils veulent simplement venir me rendre visite. Ils ont déjà maîtrisé le chemin de pratique, ayant étudié directement avec le Maître il y a de nombreuses années. C'est pourquoi, cette année, simplement un résumé de la théorie et de la pratique est présenté, afin d'aider chacun à maîtriser les étapes sans craindre de se tromper.
Monday, August 19, 202411:57 AM(View: 1079)
1- Hầu hạ cha mẹ là pháp được người hiền trí tuyên bố - Kinh BỔN PHẬN – Tăng Chi Bộ I, tr270 2.- Được chấp nhận ngang bằng với Phạm Thiên. Kinh BẰNG VỚI PHẠM THIÊN – Tăng Chi Bộ I, tr 684 3.- Làm sao trả ơn đủ cho cha mẹ - Kinh ĐẤT – Tăng Chi Bộ I, tr 118
Thursday, August 15, 20247:28 PM(View: 1084)
Le perfectionnement spirituel est un processus qui va du simple au plus difficile; la connaissance associée est peu solide au début, mais elle est progressivement transformée par l'apprentissage pour devenir de plus en plus explicite et solide.
Sunday, August 4, 202410:43 AM(View: 1128)
Bằng những kỹ thuật của Thiền, ta có khả năng điều chỉnh được bệnh tâm thể. Chỉ vì bệnh tâm thể do những trạng thái tâm rối loạn như lo âu, sợ hãi, uất cảm, giận tức, sầu khổ, trầm cảm dây dưa gây ra. Trong lúc đó mục tiêu nhắm đến của Thiền, trước tiên là điều chỉnh những rối loạn của tâm. Thiền làm cho tâm được thư giãn, thanh thản, phấn chấn, và an tịnh.
Sunday, August 4, 202410:43 AM(View: 1438)
Uất cảm được định nghĩa là sự biểu lộ trạng thái tâm lý biến động, căng thẳng, không quân bình hay không xứng hợp giữa tri giác và nhận thức về những yêu cầu (demands), nhu cầu (needs), hay khả năng đối phó trước những tình hình khẩn trương đang xảy ra.
69,256