HỘI THIỀN TÁNH KHÔNG TRUNG ƯƠNG

Triệt Như SNHP031: TIẾNG RỐNG SƯ TỬ

Wednesday, October 20, 20218:29 PM(View: 4281)

 Triệt Như - Suối Nguồn Hạnh Phúc - Bài 31

TIẾNG RỐNG SƯ TỬ

31 SUOI NGUON HANH PHUC 4 X 6 VN

Chúng ta thử nhìn lại bối cảnh lịch sử Phật giáo thời xa xưa. Sự kiện rõ nét nhất là sự phân rẽ hai dòng lớn: Tiểu thừaĐại thừa, mà vết rạn nứt đã bắt đầu từ sau khi Đức Phật nhập diệt 100 năm, tức là khoảng thế kỷ IV trước công nguyên. Đó là khi Trưởng lão bộ kết tập kinh điển lần thứ II năm 383 BCE, lý do trực tiếp là vì Thập sự phi pháp của nhóm Tăng trẻ Vajji. Bắt đầu từ đây Phật giáo phân ra hai bộ phái lớn:

-       Theravāda / Trưởng lão bộ 

-       Mahāsaṁghika/ Đại chúng bộ.

Tiếp theo, lần lượt tách ra thành lập các bộ phái khác nữa.

ĐẠI CHÚNG BỘ

Từ 100 tới 200 năm sau Phật nhập diệt, phân ra thêm 8 bộ phái khác.

TRƯỞNG LÃO BỘ

Từ 200 tới 300 năm sau Phật nhập diệt, phân ra thêm 10 bộ phái khác.

Những con số này là trong sử liệu có ghi rõ tên bộ phái, người sáng lập và chủ trương. Trong thực tế, còn nhiều hơn nữa.

Chúng ta tìm hiểu tại sao có sự phân chia nhiều bộ phái như thế. Có thể có nhiều lý do:

-       Đức Phật đã không chỉ định người lãnh đạo tăng đoàn trước khi ngài nhập diệt.

-       Không có Giáo đoàn trung ương thống nhất, có thể vì lãnh thổ Ấn Độ quá rộng lớn.

-       Phật và những đại đệ tử của Phật lần lượt qua đời.

-       Địa lý và khí hậu từng đị̣a phương khác nhau đưa đến sự chứng ngộ tâm linh khác nhau.

-       Tâm lý khác nhau giữa thế hệ già và thế hệ trẻ.

-       Hoàn cảnh lịch sử, nhà cầm quyền đàn áp.

Đây có thể nói là thời kỳ phức tạp nhất trong lịch sử Phật giáo, có quá nhiều bộ phái thi nhau xuất hiện, đưa ra nhiều quan điểm khác nhau khi giảng giải Kinh, Luật, và Luận, có khi đồng quan điểm về vấn đề này, vấn đề khác thì không đồng ý. Tuy nhiên nhìn kỹ thì hầu hết các bộ phái đều lấy những giáo lý căn bản của Đức Phật làm nền tảng cho bộ phái của mình. Thí dụ những chủ đề sau:

-       Tam pháp ấn: vô thường, khổ, vô ngã.

-       Ngũ uẩn: sắc, thọ, tưởng, hành, thức.

-        Luân hồi, Nghiệp báo, Tương quan nhân quả.

-       Tam học: giới định huệ.

-       Tam tuệ: văn tư tu.

-       Tứ Diệu Đế.

-       Tánh Không.

-       Tánh Huyễn.

-       Tánh chân như.

-       Niết bàn.

Vì thế, những vấn đề tranh luận trong những bộ Luận thư hay giữa các bộ phái hầu hết là chung quanh những vấn đề phụ, thí dụ:

-       Phật, Bồ tát, A la hán là người bình thường hay phi thường với những quyền năng siêu nhiên.

-       Kinh, hay Luật hay Luận, tạng nào là quan trọng.

-       Có thân trung ấm hay không, sau khi chết và trước khi đi tái sinh.

-       Cái gì đi tái sinh.

-       Chứng ngộ là từ từ hay tức khắc.

-       Quá khứ, hiện tại, tương lai là thực tại hiện hữu hay là không có thực.

Nhìn chung, chúng ta có thể hiểu lý luận của những bộ phái khác nhau là vì đứng trên hai chỗ khác khau: tục đế bát nhã hay chân đế bát nhã. Nên cái thấy có khi chưa rốt ráo nếu còn trong thực tế của hiện tượng.

Đối với các nhà khảo cứu Phật học xưa nay, thường ca ngợi thời kỳ phân liệt bộ phái này là thời đại huy hoàng nhất của Phật giáo. Như là vườn hoa có trăm ngàn đóa hoa hương sắc khác nhau, đua nhau nở rộ.

Ngoài 14 bộ Luận thư được kết tập chính thức, các vị Luận sư danh tiếng còn sáng tác nhiều bộ Luận thư khác nữa. Đồng thời nhiều bộ Kinh do các vị Tổ Đại thừa sáng tác cũng xuất hiện lần lượt trong khoảng thời gian 500 năm của thời kỳ huy hoàng của các bộ phái (tạm xem như khoảng 300 năm trước công nguyên tới khoảng 200 năm sau công nguyên). Các bộ kinh Đại thừa này thực sự không biết tác giả là ai, cũng không ai xác nhận được là có vào thời gian nào. Như các bộ kinh nổi tiếng: hệ thống kinh Ma ha Bát nhã Ba la mật đa, kinh Hoa Nghiêm, kinh Kim Cang, kinh Pháp Hoa, kinh Thắng Man, kinh Viên giác, kinh Thủ lăng nghiêm...

Nhìn chung, ta có thể nói đây là thời đại nổi bật nhất của Phật giáo, với những thành quả quan trọng:

-       Nhờ sự nhiệt tâm bảo trợ của hai vị vua Ấn Độ: vua Aśoka (thế kỷ III BCE) và vua Kaṇiska (thế kỷ II CE), hai bộ Tam Tạng kinh điển bằng tiếng Pāli và Sanskrit đã hoàn thành.

-       Bắt đầu phổ biến Phật giáo khắp Ấn độ.

-       Hình thành Nam tôngBắc tông, truyền bá Phật giáo ra ngoài xứ Ấn độ.

-       Các vị Luận sư hệ phái Theravāda thi nhau sáng tác các bộ Luận thư chú giải Kinh và Luật của Đức Phật.

-       Các vị Tổ Đại thừa sáng tác nhiều bộ kinh theo quan điểm giáo lý liễu nghĩa.

Giữa kho tàng kinh điển đồ sộ đó của Phật giáo, giữa bối cảnh sinh hoạt khác nhau của hàng mấy chục bộ phái, sử liệu có ghi tên hay không ghi, một tông phái mới, xuất hiện, bằng tiếng rống sư tử vang lừng, của một khuôn mặt vĩ đại: Bodhidharma, người khai sáng Thiền tông và cũng khai sáng võ học Thiếu lâm tại Trung Hoa, đầu thế kỷ VI CE.

Tiếng rống của sư tử này làm rung chuyển “cánh rừng ngôn ngữ” Phật học, khi ngài Bodhidharma giương cao lá cờ:

“Bất lập văn tự

Giáo ngoại biệt truyền,

Trực chỉ nhân tâm,

Kiến tánh thành Phật”.

Ngôn ngữqui ước của thế gian. Ngôn ngữ không phải là chân lý bất biến.

Chỗ “hoàn toàn tĩnh lặng, rỗng không, trong sáng”, chỗ “Atakkāvacara” không có ngôn ngữ hay lý luận. Tổ Bodhidharma đã thức tỉnh những người dấn thân theo chân đức Phật, mau ra khỏi “cánh rừng ngôn ngữ” của giáo lý, trực nhận bản tâm, tức là thấy tánh. Như thế, Tổ đã khai sáng chủ trương “đốn ngộ” của Thiền tông Trung Hoa.

 

Trong phạm vi bài viết này không kể lại những hành trạng của ngài Bodhidharma, chúng ta chỉ chọn vài sự kiện để hiển thị chủ trương này của Thiền tông, hay về sau còn gọi là Tổ sư Thiền, hay Thiền Tông Trung Hoa, mà sơ tổ là ngài Bodhidharma.

1-    Có thể bắt đầu Thiền tông Ấn Độ là từ Đức Phật Thích Ca, qua sự tích Niêm Hoa Vi Tiếu, sự tích này chỉ được ghi trong sử Thiền tông mà thôi. Khi Đức Phật giơ cành hoa lên trong pháp hội ở núi Linh Thứu mà ngài hoàn toàn im lặng. Hội chúng cũng im lặng, ngơ ngác. Chỉ có ngài Mahā Kassapa mỉm cười, im lặng. Đức Phật bấy giờ bảo ngài Mahā Kassapa:

-       “Ta có chánh pháp nhãn tạng, niết bàn diệu tâm, thật tướng vô tướng, nay trao cho Mahā Kassapa.”

Mình thấy Đức Phật có truyền trao cái gì cho ngài Mahā Kassapa đâu? Đó là Đức Phật ấn chứng ngài Mahā Kassapa đã an trú trong tâm như, hay tâm niết bàn, hay tâm vô tướng, hay chân tâm...giống như Đức Phật vậy. Có thể do sự kiện này mà về sau Thiền tông Ấn Độ tôn ngài Mahā Kassapa làm Tổ đời thứ nhất. Từ đó, sự truyền thừa kế tiếp cho tới Tổ thứ 28 là ngài Bodhidharma.

2-    Vâng lời chỉ giáo của Tổ thứ 27 là Prajñādhāra (có vài học giả nêu nghi vấn: đây là một vị Thiền sư ni), ngài Bodhidharma từ quê hương ở miền nam Ắn, đi thuyền qua miền nam Trung Hoa vào năm 520 CE và được yết kiến vua Lương Võ Đế. Những lời đối đáp sau đây cũng biểu lộ cái thấy rốt ráo của Tổ.

 Là một người phụng sự đạo Phật, Lương Vũ Đế đã cho xây trong nước mình nhiều chùa chiền, bảo tháp.

Vũ Đế hỏi nhà sư Ấn Độ: "Trẫm từ lên ngôi đến nay, xây chùa, chép kinh, độ tăng không biết bao nhiêu mà kể. Vậy có công đức gì không?"

Đạt Ma đáp: "Không có công đức."

- "Tại sao không công đức?"

- "Bởi vì những việc vua làm là nhân "hữu lậu", chỉ có những quả nhỏ trong vòng nhân thiên, như ảnh tùy hình, tuy có nhưng không phải thật."

- "Vậy công đức chân thật là gì?"

Sư đáp: "Trí phải được thanh tịnh hoàn toàn. Thể phải được trống không vắng lặng, như vậy mới là công đức, và công đức này không thể lấy việc thế gian (như xây chùa, chép kinh, độ tăng) mà cầu được."

Vua lại hỏi: "Nghĩa tối cao của thánh đế là gì?"

 - "Một khi tỉnh rõ, thông suốt rồi thì không có gì là thánh."

- "Ai đang đối diện với trẫm đây?"

- "Tôi không biết."

Đó là những lời khai thị về yếu tính Phật pháp rất rõ ràng, nhưng Vũ Đế không lĩnh hội.

Qua những lời hỏi đáp này, chúng ta biết nhà vua còn cái thấy hạn hẹp, chấp trước của tục đế, thấy công việc mình đã làm là có thật, có phước báu, có phân biệt phàm, thánh  v.v...nên không thể hiểu tới chỗ chân đế, vượt lên trên có không, phàm thánh, là cái thấy Trung đạo, chân lý rốt ráo mà Tổ muốn chỉ bày.

3-    Phương cách Tổ Bodhidharma khai thị chớp nhoáng cho ngài Huệ Khả, “chỉ thẳng tâm người”, không giải thích nhiều lời.

Ngài Thần Quang hỏi:

-       Pháp ấn của chư Phật con có thể được nghe chăng?

-       Pháp ấn của chư Phật không phải từ người khác mà được.

-      Tâm con chưa an, xin Thầy dạy pháp an tâm.

-      Ngươi đem tâm ra đây, ta an cho.

-      Con tìm tâm không thể được.

-      Ta đã an tâm cho ngươi rồi.

Thần Quang nhân đây được khế ngộ. Ngài liền đổi tên Thần QuangHuệ Khả.

4-    Tổ dạy ngài Huệ Khả thực hành rõ ràng, cũng “chỉ thẳng tâm”:

“Ngoài dứt các duyên,

Trong không nghĩ tưởng,

Tâm như tường vách,

Mới vào được Đạo”.

5-    Sau đây là cách Tổ trắc nghiệm chỗ thấy của đệ tử.

Sư có ý muốn hồi hương, trước khi về, gọi đệ tử trình bày sở đắc: "Giờ ta ra đi sắp tới, vậy mỗi đệ tử hãy nói cho ta nghe sở đắc của mình".

Đạo Phó bạch: "Theo chỗ thấy của tôi, muốn thấy đạo phải chẳng chấp văn tự, mà cũng chẳng lìa văn tự."

Sư đáp: "Ông được lớp da của tôi rồi."

Ni Tổng Trì nói: "Chỗ giải của tôi như cái mừng vui thấy nước Phật (tâm) bất động, thấy được một lần, sau không thấy lại nữa."

Sư nói: "Bà được phần thịt của tôi rồi."

Đạo Dục, một đệ tử khác, bạch: "Bốn đại vốn không, năm uẩn chẳng phải thật có, vậy chỗ thấy của tôi là không một pháp nào khả được."

Sư đáp: "Ông được bộ xương của tôi rồi."

Cuối cùng, đến phiên Huệ Khả. Huệ Khả lễ bái Sư rồi đứng ngay một chỗ, không bạch không nói gì cả. Sư bảo: "Ngươi đã được phần tuỷ của ta."

Rồi ngó Huệ Khả, Sư nói tiếp: "Xưa Như Lai trao 'Chánh pháp nhãn tạng' cho Bồ tát Ca Diếp, từ Ca Diếp chánh pháp được liên tục truyền đến ta. Ta nay trao lại cho ngươi; nhà ngươi khá nắm giữ, luôn với áo cà sa để làm vật tin. Mỗi thứ tiêu biểu cho một việc, ngươi nên khá biết."

Tiếp nối dòng kế thừa Tổ Đạt Ma là:

-           Nhị Tổ: Huệ Khả

-           Tam Tổ: Tăng Xán

-           Tứ Tổ: Đạo Tín

-           Ngũ Tổ: Hoằng Nhẫn

-           Lục Tổ: Huệ Năng (638-713)

Các vị Tổ thứ hai, ba và tư không có nhiều sử liệu, chúng ta lướt qua. Vị Tổ thứ tư, ngài Hoằng Nhẫn giảng kinh Kim Cang, từ kinh này, ngài Huệ Năng đại ngộ, được truyền y bát kế thừa ngay trong đêm đó. Kinh Kim Cang giảng ba chủ đề thuộc chân lý cuối cùng: Không, Huyễn và Chân như. Như vậy, ngài Huệ Năng, xem như hàng thượng căn, đã đốn ngộ, Phật tánh của ngài kiến giải chỗ thấy biết rốt ráo:

Nào dè tánh mình vốn không sanh diệt,

Nào dè tánh mình vốn thanh tịnh trong sạch,

Nào dè tánh mình vốn chứa đầy đủ muôn Pháp,

Nào dè tánh mình vốn không dao động,

Nào dè tánh mình vốn sinh ra muôn Pháp.

Từ đó, ngài Huệ Năng trở thành một vị Tổ nổi bật của dòng Tổ sư Thiền của Trung Hoa, với những vị đệ tử cũng nổi tiếng sau này: ngài Hành Tư, ngài Hoài Nhượng và ngài Thần Hội. Ngoài ra, theo sử sách có tất cả 43 vị đắc pháp nơi ngài Huệ Năng.

-       Phái Nam-Nhạc của Hoài-Nhượng Thiền-Sư, có đệ-tử là Mã-Tổ chủ hóa ở vùng Giang-Tây, sau phái Nam-Nhạc lập ra hai dòng Lâm-Tế và Quy-Ngưỡng.

-       Phái Thanh-Nguyên của Hành-Tư Thiền-Sư, có đệ-tử là Thạch-Đầu, có tiếng là “Thạch-Đầu đường trơn”, chủ hóa ở Hồ-Nam; sau phái Thanh-Nguyên lập ra ba dòng Vân-Môn, Pháp-Nhãn, và Tào-Động.

-       Phái Hà-Trạch của Thần-Hội truyền đến hết đời Tông-Mật Thiền-Sư, thì thất truyền.

Còn lại năm dòng, cũng gọi là năm nhà, truyền mãi xuống về sau; cội nguồn từ Lục-Tổ truyền xuống năm dòng, mỗi dòng có tác phong riêng để tiếp dẫn hậu học, nhưng không ngoài mục đích của Thiền-Tông là minh-tâm kiến-tánh, và đều lấy tích Niêm Hoa Vi Tiếu của Phật Thích-Ca làm kim chỉ nam.

 

 

Kết luận, Thiền Tông Trung Hoa được xem như bắt đầu từ Sơ Tổ là ngài Bodhidharma, người Ấn Độ, qua tiếng rống sư tử, thức tỉnh con người trở lại bản tâm, nhận ra bản tánh, trống rỗng, tịch diệt, chiếu sáng của mỗi người. Ngài Huệ Năng do tiếp nối con đường của Tổ Bodhidharma, nên cũng là một vị Tổ sáng chói của Thiền Tông. Do vậy, Tổ sư Thiền cũng gọi là Thiền tông đốn ngộ, hay Như Lai thanh tịnh Thiền, hay Tối thượng thừa Thiền.

 

Thiền viện , 16- 10- 2021

TN

 

 

 Line 2
 Triệt Như - Suối Nguồn Hạnh Phúc - Bài 31
TIẾNG RỐNG SƯ TỬ

audio-icon_thumbnail
(CLICK vào icon tam giác để nghe - CLICK vào icon 3 dấu chấm để download)

 

   

Reader's Comment
Saturday, October 23, 20219:41 AM
Guest
Lương Võ Đế đối diện Đạt ma:
"xây chùa, chép kinh ?"
"Không công không đức."
"Thánh đế tối cao ?"
"Rỗng không vô thánh."
"Ai đối diện đây?"
"Không biết không Ai. "
Tiếng gầm sư tử.
Ngữ ngôn mịt mù.
Có Ai đó nghe ?
Send comment
Off
Telex
VNI
Your Name
Your email address
Monday, September 9, 20241:38 PM(View: 9)
Dans l'immensité de la mer, Il existe une petite île. Au lieu de s'y réfugier, Nous nous accrochons aux écumes...
Thursday, September 5, 20247:55 PM(View: 144)
Quán các cảm thọ, là quan sát, ghi nhận sự sanh khởi của Thọ uẩn: Đây là Thọ khổ, đây là Thọ lạc, đây là Thọ xả, đây là Thọ liên hệ vật chất, đây là Thọ không liên hệ vật chất. Niệm Thọ để thấy tính sanh diệt, vô thường, khổ, vô ngã của Thọ uẩn...
Wednesday, August 28, 202410:43 AM(View: 312)
Những đo đạt sau cùng của Thiền sư Thích Thông Triệt đã được thực hiện vào ngày 8 và 9 tháng 6 năm 2013. Tôi tường trình ở đây một số kết quả từ những thực nghiệm này kết hợp với kỹ thuật chụp ảnh chức năng cộng hưởng từ (f-MRI) và điện não đồ (EEG, 256 channels).
Wednesday, August 21, 20248:40 AM(View: 447)
La retraite de cette année à Toronto a réuni de nombreux méditants chevronnés y participent. Je sais qu'ils veulent simplement venir me rendre visite. Ils ont déjà maîtrisé le chemin de pratique, ayant étudié directement avec le Maître il y a de nombreuses années. C'est pourquoi, cette année, simplement un résumé de la théorie et de la pratique est présenté, afin d'aider chacun à maîtriser les étapes sans craindre de se tromper.
Monday, August 19, 202411:57 AM(View: 443)
1- Hầu hạ cha mẹ là pháp được người hiền trí tuyên bố - Kinh BỔN PHẬN – Tăng Chi Bộ I, tr270 2.- Được chấp nhận ngang bằng với Phạm Thiên. Kinh BẰNG VỚI PHẠM THIÊN – Tăng Chi Bộ I, tr 684 3.- Làm sao trả ơn đủ cho cha mẹ - Kinh ĐẤT – Tăng Chi Bộ I, tr 118
Thursday, August 15, 20247:28 PM(View: 366)
Le perfectionnement spirituel est un processus qui va du simple au plus difficile; la connaissance associée est peu solide au début, mais elle est progressivement transformée par l'apprentissage pour devenir de plus en plus explicite et solide.
Sunday, August 4, 202410:43 AM(View: 515)
Bằng những kỹ thuật của Thiền, ta có khả năng điều chỉnh được bệnh tâm thể. Chỉ vì bệnh tâm thể do những trạng thái tâm rối loạn như lo âu, sợ hãi, uất cảm, giận tức, sầu khổ, trầm cảm dây dưa gây ra. Trong lúc đó mục tiêu nhắm đến của Thiền, trước tiên là điều chỉnh những rối loạn của tâm. Thiền làm cho tâm được thư giãn, thanh thản, phấn chấn, và an tịnh.
Sunday, August 4, 202410:43 AM(View: 840)
Uất cảm được định nghĩa là sự biểu lộ trạng thái tâm lý biến động, căng thẳng, không quân bình hay không xứng hợp giữa tri giác và nhận thức về những yêu cầu (demands), nhu cầu (needs), hay khả năng đối phó trước những tình hình khẩn trương đang xảy ra.
Tuesday, July 23, 20245:00 PM(View: 869)
VIDEO& SLIDES: Ni sư Triệt Như Giảng Đại Chúng: TỔNG KẾT NHỮNG CÁCH TẬP THIỀN ngày 13 THÁNG 7, 2024 tại THIỀN ĐƯỜNG TÁNH KHÔNG Nam Cali
Sunday, July 21, 202411:46 AM(View: 534)
Zum Schluss: Was ist es? Meine Antwort lautet vorläufig: Es ist die Natur.“ Es ist es".
Tuesday, July 16, 20247:58 PM(View: 788)
VIDEO Ni sư Triệt Như Giảng Đại Chúng tại Thiền Viện Tánh Không ngày 6 tháng 7, 2024 với chủ đề: NGHỆ THUẬT SỐNG GIỮA THẾ GIAN
Monday, July 15, 20244:07 PM(View: 534)
Es gibt zwei Faktoren, die zum Leid führen können. Es sind „Bonsai“ und „Mein“. Weil er mein ist, bedauerte ich sehr, als er eingegangen ist. Weil er mein ist, habe ich ihn ins mein Zimmer gestellt. Nicht nur ich habe eine Vorliebe für die Bonsai-Bäume.
Tuesday, July 9, 20248:40 PM(View: 683)
Pháp tu quán Thân giúp hành giả nhận ra cấu trúc của con người chỉ là Ngũ uẩn, là Danh sắc. Danh sắc thuộc pháp hữu vi, có điều kiện, nên Ngũ uẩn chịu quy luật Vô thường-Khổ-Vô ngã, và có mặt ở trên đời này theo chu kỳ Sinh-Trụ-Hoại-Diệt.
Saturday, July 6, 20243:07 PM(View: 655)
Ni sư Triệt Như Audio: Bài 237 - TỔNG KẾT VỀ DHAMMA 5-5-2024 TOULOUSE song ngữ
Friday, July 5, 20247:25 AM(View: 1076)
Kết lại, tất cả, nó là cái gì? Mình xin tạm trả lời “Nó là thiên nhiên. Nó là Như Vậy”.
Thursday, July 4, 20241:13 PM(View: 542)
Als Buddhistin habe ich auch Ehrfurcht vor dem Buddha und ich habe geglaubt, dass der Bodhi-Baum mir eine erleuchtete Weisheit darstellt. Daher gab es eine Zeit, in der ich mir einen eigenen Bodhi-Baum im Zimmer wünschte.
Monday, July 1, 202410:03 AM(View: 928)
Qua số phận của cây bồ đề bonsai của mình, mình nhận ra tất cả vấn đề nằm ở 2 chỗ, 1 là “bonsai”, 2 là “của mình”. Vì là “của mình” nên mình mới xót xa, băn khoăn khi nó héo khô. Vì là “của mình” nên nó phải là "bonsai" để trang hoàng trong nhà cho mình ngắm.
Monday, June 24, 20242:07 PM(View: 798)
Theo quan niệm nhà Phật thì con người tự ràng buộc mình trong nỗi khổ đau do chính mình gây ra (từ nghiệp cũ, nghiệp mới, ngũ dục, ngũ trần, tham, sân, si). Muốn thoát khổ thì phải tự mình tháo gở những sợi dây ràng buộc đó, chứ không Thần Phật nào cứu rỗi, ban ơn, giáng họa cho mình.
Monday, June 24, 202411:03 AM(View: 675)
Nun habe ich erfahren, dass jeder Baum ein Bodhi-Baum ist, dass jede Blume, jede Blüte, jede Landschaft eine ultimative Realität offenbart. Jede Blume, jede Zierpflanze ist also ein „Bodhi-Baum“ und keiner davon ist mein eigener „Bodhi-Baum“.
Monday, June 24, 202410:12 AM(View: 919)
Vénérable Bhikkhuni Triệt Như Audio: N° 231 - ANUPASSANA - VIPASSANA - Traduit en français par Nhất Hòa et Marc Giang
Monday, June 24, 20249:45 AM(View: 977)
Vénérable Bhikkhuni Triệt Như Audio: N° 230 LES ÉTAPES DE PRATIQUE DE LA MÉDITATION Traduit en Français par Marc Giang et Nhất Hòa
Tuesday, June 18, 20242:30 PM(View: 1280)
Người Phật tử có lòng tôn kính đức Phật, thường có lòng biết ơn cây bồ đề, mình lại nghĩ thêm rằng cây bồ đề biểu hiện cho trí tuệ giác ngộ, nên đã có lúc phóng tâm muốn có một cây bồ đề xanh tươi của riêng mình.
Wednesday, June 12, 20249:35 AM(View: 952)
VIDEO Ni sư Triệt Như Giảng Đại Chúng tại Thiền Đường Tánh Không Nam Cali ngày 8 tháng 6, 2024 với chủ đề: PHÁP
Tuesday, June 11, 202411:40 AM(View: 1432)
Mà bây giờ mình đã biết, cây nào cũng là cây giác ngộ, hoa lá, cảnh vật nào cũng hiển lộ thực tại cuối cùng. Vậy thì cây cảnh hoa lá nào cũng là "cây bồ đề", đâu có cái nào là của riêng mình đâu ?
Monday, June 10, 20241:27 PM(View: 910)
Từ ngữ Pháp, từ xưa tới giờ có rất nhiều ý nghĩa và ý nghĩa của nó rất rộng cho nên cô tạm gom lại để phân ra ba nội dung khác nhau tức là có thể xếp vào ba ý nghĩa khác nhau của từ Dhamma.
Sunday, June 9, 20249:11 PM(View: 681)
Als ich heute Nachmittag den Vorgarten des Sunyata-Zentrums betrachtete, der mit schwarzer und fruchtbarer Erde bedeckt wurde, fühlte ich mich glücklich. Liebe Freunde, wenn der Geist unbedeckt ist, strahlt das Weisheitslicht von selbst aus!
Saturday, June 8, 20249:28 PM(View: 909)
LA VOIE DE PERFECTIONNEMENT: LA VERTU, LA STABILISATION DU MENTAL, LA SAGESSE - Traduit en Français par Nhất Hòa et Marc Giang
Saturday, June 8, 20249:25 PM(View: 908)
LE PROCESSUS DE PRATIQUE PAR L'AUDITION ET LA VISION - Traduit en Français par Nhất Hòa et Marc Giang
Saturday, June 8, 20249:25 PM(View: 919)
LA VOIE DE PERFECTIONNEMENT DES BHIKKHUS AU TEMPS DU BOUDDHA - Traduit en Français par Nhất Hòa et Tâm Minh.
Wednesday, June 5, 20245:06 PM(View: 852)
Tứ Niệm Xứ là con đường duy nhất giúp thanh tịnh chúng sanh, diệt trừ khổ ưu, quả là lời hứa tuyệt vời của đức Thế Tôn. Với pháp môn này, đức Phật dạy hành giả trực tiếp quán thẳng vào bốn xứ thuộc thân-tâm để nhận ra thân, thọ, tâm, pháp thực chất của nó là vô thường, bất như ý, vô ngã.
Monday, May 20, 202410:22 AM(View: 872)
La retraite de Sunyata Toulouse à Moissac, dans le sud-ouest de la France, est terminée et nous sommes retournés à nos vies quotidiennes. En revoyant les images de ces jours de paix, de sérénité et de bonheur, en compagnie d'amis méditants d'ici et d'ailleurs, mon cœur ne peut s'empêcher d'évoquer quelques attachements et souvenirs.
Monday, May 20, 202410:11 AM(View: 1067)
Wenn der Geist ein Objekt wahrnimmt, nimmt er „was gerade ist“ wahr. Wenn er aber in sich kehrt, nimmt er „die Soheit „(Tathatā/ the Suchness) wahr. Hier endet alles, es gibt keine Worte, keine Schrift, keine Namen, keine Außenwelt, kein Denken, keine Diskriminierung, keine Liebe, keinen Hass mehr. Alles ist gleichwertig. Haben die Partriarchen Recht, dass „die Erleuchtung bereits im Augenkontakt liegt“?
Monday, May 13, 20245:16 PM(View: 925)
Thiền Chỉ, tiếng Pali là “Samatha”. Nó có một từ nữa mang nghĩa tương đồng gọi là “Samadhi”, tức là Định. “Chỉ” là dừng lại. “Thiền Chỉ” hay “Thiền Định” là trạng thái tâm chuyên chú vào một cảnh, một đề mục, khiến cho mọi vọng tưởng đều ngưng bặt, tạo sự an vui (sukkha) hỷ lạc cho hành giả.
Thursday, May 9, 20244:00 PM(View: 1349)
Chiều nay, ngắm nhìn khoảng sân rộng trước tổ đình sạch bót, một màu đen phì nhiêu, đất xốp, sẵn sàng chờ đón được gieo trồng, mình cảm thấy vui. Các bạn hiền ơi, đất tâm nếu trống không, mặt trời trí tuệ sẽ tự chiếu!
Wednesday, May 8, 20247:45 AM(View: 735)
Also: „Alle Dharmas kehren zu einem zurück, wo ist dieses Eine?“ Es kann sein, dass alle Dharmas zu dem Geist zurückgeht. Nun verstehen wir vielleicht, warum die Patriarchen damals gegangen sind, ohne jegliche Spur hinterlassen zu haben, als sie gegangen sind. Das Prajnaparamita-Sutra hat jedoch unendlich über die Leere, Illusion und Soheit berichtet.
Friday, May 3, 20246:55 PM(View: 850)
It is normal, natural, and reasonable that mundane phenomena emerge, change then terminate. If we could grasp that comprehension, when something appears or disappears, we are neither cheerful nor sorrowful. Then, our mind is serene and peaceful. And we realize that everywhere is our original adobe, every phenomenon, fact, event, situation or being, carries the truths of transience, the principles of cause-responded conditions, non-selfness, and the trait of bareness… The Dharma sounds from our Lord have been roaring and echoing in the infinite universe. As a result, the planet where we are now is the Buddha’s very realm, my dearest friends.
Thursday, May 2, 20243:30 PM(View: 1508)
Phải thông hiểu tới những chân lý rốt ráo: bản chất của thế gian là trống không, là như huyễn, do nhân duyên hội họp mà sinh ra, rồi sẽ thay đổi, và sẽ mất đi. Mình sẽ bớt dính mắc với những cảnh thăng trầm trong cuộc đời. Đây là trí tuệ xuất thế gian, giúp mình sống bình an trong đời.
Wednesday, May 1, 20246:56 AM(View: 968)
Der Wagen „mit einem Gang“ ist die wortlose Achtsamkeit (Sati), die uns vom Anfang bis zum Ende des Kultivierungsweges begleitet. In Wirklichkeit gibt es aber keinen Weg, der uns zur Erleuchtung bringt. Denn dieses wortlose Bewusstsein gehört uns von der Geburt an. Es war und ist rein, ruhig, klar und objektiv. Liebe Freunde, hole dieses wortlose Bewusstsein von Innen heraus. Suche es nirgendwo draußen.
Friday, April 26, 202411:42 AM(View: 1337)
Khi nó thấy cảnh, thì nó thấy “cái đang là”. Khi nó an trú trong chính nó, thì nó thấy “cái như vậy” (Tathatā/ the Suchness). Bây giờ, mọi sự đều chấm dứt, không có lời nói, không có văn tự, không có tên gọi, thế gian cũng không còn. Không suy nghĩ, không phân biệt, không thương ghét, tất cả tan biến, bình đẳng. Có phải cổ nhân đã nói đúng “chạm mắt là bồ đề”?
Sunday, April 21, 20242:20 PM(View: 1987)
Vậy thì “Muôn pháp về một, một về chỗ nào?” có thể là muôn pháp đều về tâm, còn nếu thắc mắc: tâm về chỗ nào? Thì ăn gậy là phải rồi. Bây giờ mới hiểu tại sao chư Thiền Đức ngày xưa ra đi không cần lưu lại dấu vết mà hê thống kinh Bát nhã ba la mật lại viết tràng giang đại hải về Không, Huyễn và Chân Như. Có phải vì chỗ đó ngoài ngôn ngữ, còn nếu dùng ngôn ngữ thì nói hoài cũng không xong?
Saturday, April 20, 20246:38 AM(View: 1044)
Also durch die Sinnesorgane nehmen wir also, „was gerade ist“, eine reale Sache wahr, das heißt, wir nehmen es wie eine reale Sache, obwohl es nicht echt ist. Ebenso ist ihre Stabilität, ihre Dauerhaftigkeit eine „Illusion“... Das Reale besteht darin, Phänomene durch die Sinnesorgane wahrzunehmen und die Illusion besteht darin, die Essenz eines Phänomens durch eine Weisheit zu verstehen.
Wednesday, April 17, 20242:27 PM(View: 1081)
Tu tập theo đạo Phật không phải để sở hữu được điều gì, mà thực ra là để buông xả không bám víu với bất kỳ những gì ở trên đời... mà chỉ nhận biết rõ ràng pháp đến rồi đi, đó là điều tự nhiên của vạn pháp. Và sự đến đi đó, là bài học “sinh diệt, vô thường, vô ngã” giúp cho chúng ta không bị dày vò phiền não khi nghịch cảnh đến, hoặc quá đắm chìm mê say hưởng khoái lạc, khi duyên thuận lợi đến với mình, mà phải sống trong trung đạo vừa phải.
69,256