Triệt Như - Suối Nguồn Hạnh Phúc - BÀI 22
NGHỆ THUẬT SỐNG
Tựa bài mới nhìn thấy, có thể các bạn sẽ cho là quá cao xa, bao quát, viển vông. Đúng vậy, trong phạm vi vài trang giấy làm sao trình bày đầy đủ vấn đề này. Chỉ bàn tới phương thức sống thôi cũng cần một quyển sách, huống chi dám ghi là “nghệ thuật sống”. Vì thế, mình chỉ xin giới hạn lại trong phạm vi cái nhìn của Phật giáo về phương thức sống của hàng bồ tát, thuật ngữ là “tứ nhiếp pháp”. Chủ đề này thiệt ra cũng từng được nhiều vị tôn đức khai triển rồi, bây giờ nhắc lại có khi là dư thừa, làm mất thì giờ thêm. Nên ở đây, mình chỉ lướt qua những gì chúng ta đã biết, chúng ta sẽ dừng lại với những gì quan trọng mà thôi. Bài này sẽ không lặp lại những ý nghĩa phổ thông, giáo điều, có tính hàn lâm, kinh điển, mà chỉ muốn chia sẻ một ít cái thấy của Thiền, chắt lọc vài tinh hoa của Pháp, ứng dụng thực tiễn cho chúng ta.
Mặc dù trong kinh sách vẫn ghi là phương thức của hàng bồ tát hành xử trong đời để có thể nhiếp phục chúng sanh, nhưng ngẫm nghĩ lại thì đây cũng là phương thức tu tập thích hợp cho chúng ta, có thể ứng dụng trong cuộc sống bình thường của mình, với mục tiêu là đạt tới sự hài hoà giữa gia đình, và xã hội. Vì thế hôm nay mình bàn thảo về “tứ nhiếp pháp”, một con đường tu, cũng hoàn hảo, cũng tuyệt diệu, cũng dẫn tới thoát khổ, giác ngộ và giải thoát.
Trong tất cả những bài giảng về “tâm phàm phu”, chúng ta đã nhận ra cái chủ thể, tạo ra xung đột, khổ đau cho mình và người khác, chính là cái “Ngã”. Hễ có cái Ngã thì có chủ quan. Chủ quan hiểu theo thực tế, bình dân, là thiên lệch, là méo mó, là điên đảo, là ích kỷ, là tham lam, là sân hận, là đưa tới những kết quả tất nhiên: tranh chấp, xung đột, khổ đau.
Trong cái thấy tỉnh ngộ, mình biết cái “ngã” không phải là một cái gì có thật, vững bền, hiện hữu. Cái “ngã” cũng là một hiện tượng như tất cả những hiện tượng thế gian khác. Tức là cái “ngã” cũng do vô số duyên sinh ra, nên nó cũng vô thường, biến hoại, và đoạn diệt. Để rồi nó trở thành cái khác, cái “vô ngã”. Tuy nhiên, vì có “ngã” nên tạm thiết lập “vô ngã”. Khi hoàn toàn không có “ngã” thì cũng không cần có “vô ngã”. Tới đây là chỗ “Atakkāvacara”. Ngoài lý luận, ngoài lời.
Bây giờ trở lại chủ đề. Cái nhiếp pháp thứ nhất là “bố thí.” Phương thức này đi trước bước “chú tâm cảnh giác” của bài “Đại kinh Xóm Ngựa”, hay thay thế “dục tầm” bằng “ly dục tầm” của bài kinh “Song tầm”. Hai bài kinh này dạy cho hàng tỳ kheo mới bắt đầu tu từng bước, làm trong sạch tâm của mình, không khởi ra ý nghĩ ác, bất thiện. Trong Tứ Nhiếp Pháp, phải ban phát ra, cho đi, theo khả năng của mình và thích hợp với nhu cầu của người. Ở đây là ý nghĩ tốt, thiện lành cần phải thể hiện ra trong thực tế, mới giúp ích cho người. Bố thí cùng khắp, bình đẳng, thể hiện tâm đã bình đẳng, có trí tuệ và từ bi. Người bố thí được là người đã mở bung cánh cửa tâm đón tất cả những ngọn gió đời. Các bạn để ý nha, mình nói là “cánh cửa tâm”, chứ mình không nói “cánh cửa tâm của mình”.
Tới đây không còn “của mình”. Như vậy, có phải “Bố thí” là một con đường thênh thang đi vào biển “Hạnh phúc” không, hở các bạn?
Tuy nhiên, chúng ta phải hiểu trọn vẹn “nghệ thuật bố thí” thì bố thí mới là con đường Thiền. Nếu hiểu nông cạn, thì bố thí chỉ là việc làm từ thiện thôi, mang tới những kết quả tốt trong giới hạn những pháp hữu vi, hữu lậu mà thôi.
Nói chung, khi mình làm một hành động, với cái tâm nào, thì hành động đó có phẩm chất của cái tâm đó. Thí dụ: mình gởi một số tiền cho một cơ quan từ thiện, với tâm đời, mình muốn có biên lai nhận tiền để miễn trừ thuế, để chứng minh sổ sách rõ ràng, hay danh tánh của mình được công bố cho nhiều người biết v.v... thì có khi sự việc xảy tới chưa đúng, mình sinh ra bực bội, nghi ngờ, lại tạo ra ý nghiệp, lời nghiệp không tốt.
Cho nên, bố thí cũng phải cần có trí tuệ để nâng nó thành nghệ thuật tu tập của con đường tâm linh. Bố thí là thể hiện của tâm cao thượng mới là bố thí có nghệ thuật. Tâm cao thượng thường được diễn tả qua 4 sắc thái: từ, bi, hỷ và xả. Bốn sắc thái tâm này, chúng ta đều biết quá rõ, không cần nói thêm. Mà nền tảng của 4 sắc thái tâm này là cái gì? Chính là Vô phân biệt trí hay Bình đẳng trí. Cũng có nghĩa là “Vô Ngã”.
Mình mới nói tới nhiếp pháp thứ nhất là “Bố thí”, mà cũng hướng mình đi tới giải thoát rồi, giải thoát khỏi sự trói buộc của cái ngục tù Ngã, ngục tù Tham Ái.
“Việc cần làm đã làm xong”, vậy chúng ta có cần bàn tới nhiếp pháp thứ hai, thứ ba, thứ tư hay không? Mình bàn tiếp để cho trọn vẹn là Tứ nhiếp pháp vậy.
Nhiếp pháp thứ hai là “Ái Ngữ”.
Khi quy y và nhận năm giới, mình đã biết giới thứ tư: không nói dối, hay không vọng ngữ. Nếu phân tích chi ly hơn, có nhiều điều không nên, trái lại có nhiều điều nên hay phải làm, thí dụ:
- Phải đúng sự thật. Tuy vậy có những sự thật nói ra sẽ làm buồn khổ cho người, vậy tốt hơn là không nói.
- Phải đúng lúc nói mới nói.
- Phải đúng người cần biết.
- Phải có ích lợi mới nói. Những chuyện vui đùa, vô ích, ma quái, nhảm nhí, đều là phiếm luận, hý luận, không nên nói.
- Phải dùng lời tao nhã, êm đẹp, chân thành. v.v...
Đức Phật đã dạy hàng tỳ kheo khi tụ họp, chỉ bàn có một việc mà thôi: Làm sao hết khổ? Ngoài ra tất cả những việc khác đều là vô ích, là phạm giới. Đối với tất cả những việc khác trong đời, phải giữ im lặng, là sự im lặng của bậc Thánh.
“Này các Tỳ kheo, chớ có nói những câu chuyện của loài súc sanh, những câu chuyện về vua chúa, câu chuyện về ăn trộm, câu chuyện về đại thần, câu chuyện về binh lính, câu chuyện về hãi hùng, câu chuyện về chiến tranh, câu chuyện về đồ ăn, câu chuyện về đồ uống, câu chuyện về vải mặc, câu chuyện về giường nằm, câu chuyện về vòng hoa, câu chuyện về hương liệu, câu chuyện về bà con, câu chuyện về xe cộ, câu chuyện về làng xóm, câu chuyện về thị tứ, câu chuyện về thành phố, câu chuyện về quốc độ, câu chuyện về đàn bà, câu chuyện về đàn ông, câu chuyện về vị anh hùng, câu chuyện bên lề đường, câu chuyện tại chỗ lấy nước, câu chuyện người đã chết, các câu chuyện tạp thoại, các câu chuyện biến trạng của thế giới, câu chuyện về biến trạng của đại dương, câu chuyện về sự hiện hữu và sự không hiện hữu. Vì sao ?
Những câu chuyện này không đưa đến mục đích, không phải căn bản làm cho Phạm Hạnh, không đưa đến yếm ly, ly tham, đoạn diệt, thắng trí, giác ngộ, Niết Bàn. Có nói chuyện, này các Tỳ kheo, các Ông hãy nói chuyện: "Đây là khổ" "hãy nói chuyện: "Đây là Con Đường đưa đến Khổ diệt..."
Kinh Tương Ưng Bộ V, Phẩm Định, tr. 609. (S. V. 149)
Tuy đây là Giới của tỳ kheo, nhưng nếu chúng ta phát tâm tu dõng mãnh như người xuất gia, thì chúng ta cũng nên rèn luyện mình cẩn mật như người xuất gia vậy.
Nhiếp pháp thứ ba là “Lợi Hành”. Đó là hạnh sống hữu ích cho mình và cho người khác. Tùy nơi mình hiểu biết như thế nào là hữu ích, hữu ích về phương diện nào, vậy cũng tùy theo khả năng của mình mà đáp ứng thích hợp. Cho nên cũng cần tới trí tuệ khách quan và bén nhạy để đem lợi ích cho mình và cho người khác.
Nhiếp pháp thứ tư là “Đồng sự”. Tạm hiểu đơn giản là cùng làm chung, cùng hành động, hoạt động như người bình thường trong tập thể. Cũng có ý khuyên mình không tạo ra một khoảng cách giữa ta và người khác, giữa ta và xã hội. Không sống cô lập trong “cái tháp ngà” của riêng mình. Khi một người tự tách mình ra khỏi cuộc đời, không thích giao tiếp, không vui vẻ, cởi mở, có thể là biểu hiện của cái “Ta tự ty” hay cái “Ta tự hào”. Cả hai đều là bộ mặt của “Ngã” cho rằng “ta không bằng ai” hay “không ai bằng ta”. Cách sống tự cô lập này không phải là đời sống lý tưởng của người đi trên con đường tỉnh thức, dù là theo A la hán đạo hay Bồ tát đạo.
Khi xưa, chính đức Phật, cũng như các vị cổ Phật, đều bắt đầu con đường tu bằng hạnh xuất gia rồi ẩn tu, trong núi Tuyết, hay trong rừng hoang, tới khi giác ngộ rồi, các ngài vào đời, thân cận mọi giai tầng trong xã hội, để tìm duyên giáo hoá. Truyền thống tốt đẹp này được gìn giữ cho tới ngày nay. Chúng ta nên thấy rõ như vậy, trong giai đoạn tu thì cần ly gia cắt ái, cần:
“Ngoài dứt các duyên
Trong không nghĩ tưởng,
Tâm như tường vách,
Mới vào được đạo”.
(Tổ Bồ Đề Đạt Ma dạy ngài Huệ Khả)
Nhưng khi đã có trí tuệ rồi, các ngài đã trở lại vào đời giáo hoá, làm lợi ích cho chúng sanh. Đó là ý nghĩa của “Lợi Hành” và “Đồng sự”. Đây là hạnh sống của hàng Bồ tát, tức là người có tâm nguyện dũng mãnh, chí khí ngất trời, đạt cho tới trí tuệ và công đức viên mãn tròn đầy như bậc giác ngộ.
Nghệ thuật sống là hòa hợp với cuộc đời mà không đắm chìm trong cuộc đời. Nghệ thuật này được nói gọn trong 4 khía cạnh: bố thí, ái ngữ, lợi hành và đồng sự. Hôm nay xin giới thiệu thêm một đời sống thanh cao, có ích lợi cho mình và cho cuộc đời, trong cái nhìn của Phật giáo.
Thiền viện, 8- 8- 2021
TN
______________________________________________
NGHỆ THUẬT SỐNG
(CLICK vào icon tam giác để nghe - CLICK vào icon 3 dấu chấm để download)
- Tag :
- Ni Sư Triệt Như
Nhà nuôi vài con gà mái, lấy phân gà rắc ra cỏ , cỏ mọc tốt tươi, cắt cỏ đem cho gà ăn, gà đẻ trứng, trứng nở ra con😀.
Nếu ta lấy phân gà cho gà ăn thì gà chẳng bao giờ ăn.
Nhưng phân gà nuôi (khoán đổi) cỏ tốt tươi thì gà ăn rồi đẻ ra trứng, ra gà con.
Còn con người thì sao?
Đơn giản là con người BIẾT CÁCH đem phân gà rắc ra cho cỏ xanh tươi để gà (bộ máy sinh hoc) làm ra trứng mà thôi.
Đây cũng là nghệ thuật 🤢💚👀
Là nghệ thuật kết nối với những con người chung quanh.
Là nghệ thuật thả trôi nổi trong dòng sông thế sự.