HỘI THIỀN TÁNH KHÔNG TRUNG ƯƠNG

Thích Nữ Hằng Như: Pháp Tu “TỨ VÔ LƯỢNG TÂM”

Friday, July 16, 202111:12 PM(View: 4900)

Pháp Tu

TỨ VÔ LƯỢNG TÂM”

------------------------------

Thích Nữ Hằng Như

 Từ Bi Hỷ Xả

I. DẪN NHẬP

Tâm là một trong hai yếu tố thành lập nên con người. Tâm không phải là vật chất. Tâm trừu tượng, nên chúng ta không thể trông thấy hay sờ mó tâm được. Tuy tâm khônghình dáng như thân vật chất, nhưng không có nó thì con người không thể sống được. Tâm là những cảm xúc vui vẻ hạnh phúc, là những ưu tư phiền muộn, khổ đau, là những nhớ nhung suy nghĩ, là sự hiểu biết, là trí tuệ của con người.  Những thứ này gom lại thành nguồn năng lượng sống tạo nên nhân cách của con người tốt hay xấu. Tùy theo năng lượng thiện hay bất thiện, từ đó tâm sẽ đưa ta đến cảnh giới tương ưng. Đó là cảnh giới an vui hay đau khổ, Niết-bàn hay địa ngục, Phật hay ma, tất cả đều do tâm tạo.

Muốn được an vui hạnh phúc việc đầu tiên phải tu tập điều phục chính bản tâm của mình. Trong nhà Phật có pháp môn tu “Tứ vô lượng tâm”. Đây là pháp môn tu tập giúp cho tâm người phàm phu vốn ích kỷ nhỏ hẹp, trở thành tâm quảng đạitâm từ bi của bậc Thánh.  

Đối với chúng ta, những hành giả bắt đầu bước vào đường tu đạo giải thoát, hành trì pháp mônTứ vô lượng tâm” chẳng những giúp thân tâm chúng ta dần dần trở nên hoàn thiện, có được lối sống của bậc Thánh ngay trong đời hiện tại, còn trưởng dưỡng được nhiều phước đức hỗ trợ con đường tu tập của mình nhiều đời nhiều kiếp trong tương lai cho đến khi trọn thành Phật đạo.

 

II. “TỨ VÔ LƯỢNG TÂM” LÀ GÌ?

Tâm vô lượng là tâm rộng lớn, mênh mông vô bờ bến, trùm khắp pháp giới. Đó là tâm vượt thoát mọi sự ràng buộc chấp trước hẹp hòi của tâm lý thường tình thương ghét, giận hờn, kiêu căng, ngã mạn…

Tâm vô lượng là tâm luôn sẵn sàng mang lợi ích cho tất cả mọi người, mọi loài, không phân biệt thân sơ, tôn giáo, chủng tộc, nam nữ, già trẻ, lớn bé, đẹp xấu… là tâm tự nhiên không so đo hơn thấp, không thấy có người hơn mình hay mình hơn người, ngay cả với con vật nhỏ bé…  nên tâm vô lượng còn có nghĩa là “đẳng tâm” tức “tâm bình đẳng” xem tất cả chúng sanh và mình như nhau không khác.

Tâm vô lượng gồm bốn đức tánh: Từ, Bi, Hỷ, Xả nên có tên là “Tứ Vô Lượng Tâm”. Từ, Bi, Hỷ, Xả là bốn đức tính cao thượng ẩn chứa vô lượng vô biên công đức. Là con người, mỗi mỗi đều có sẵn bốn đức tính này, nhưng vì bị các phiền não, lo âu, ích kỷ, ghen ghét trong cuộc sống hằng ngày lấn áp, nên bốn đức tính tốt đẹp này bị chìm khuất. Muốn khơi nó dậy, chúng ta cần phải tẩy trần, làm trôi đi những thứ ô nhiễm bám chặt trong tâm phàm phu bằng cách tu tập một hay các phương thức Phật dạy, đó là: Quán, Chỉ, Định, Huệ … giúp tâm trong sạch, bình đẳng, không phân biệt hai bên, thì bốn đức tính Từ, Bi, Hỷ, Xả sẽ từ từ hiển lộ. Khi bốn đức tính này bắt đầu hiển lộ, chúng ta nên tiếp tục hành trì pháp môn “Tứ Vô Lượng Tâm” để năng lượng của nó phát huy ngày một vững chắc, hầu hoàn thiện bản thân mình trên con đường tâm linh, thuận duyên mang lợi ích đến cho mọi người xung quanh.

 

1) Tâm Từ vô lượng:  Là tâm đồng cảm, thương mến rộng lớn, bình đẳng đối với vô lượng chúng sinh.  Lúc nào cũng mong tạo niềm vui chân thật, mang sự mát mẻ đến cho tất cả mọi người không phân biệt chúng sanh đó là ai? Tâm Từ cũng không giới hạn đối với các loài động vật dù lớn hay nhỏ, dù dữ hay hiền, dù sống trên đất liền hay sâu dưới lòng đất, kể cả các loài chim bay trong không gian, hay loài rùa cá sống dưới nước và cả những loài cây cỏ sống trên mặt đất này. Đức Phật đã từng khuyên dạy chúng đệ tử hãy thương yêu mọi người mọi loài như tình thương của người mẹ dành cho đứa con ruột thịt của mình. Khi cần, người mẹ đó sẵn sàng hy sinh kể cả tính mạng để bảo vệ đứa con thân yêu độc nhất không một chút ngần ngại. Trong “Kinh  Từ Bi” có đoạn khuyến khích mọi người nên: “……  Đem an vui đến cho muôn loài. Cầu chúng sinh thảy đều an lạc. Không bỏ sót một hữu tình nào. Kẻ ốm yếu hoặc người khỏe mạnh. Giống lớn to hoặc loài dài cao. Thân trung bình hoặc, ngắn, nhỏ, thô. Có hình tướng hay không hình tướng. Ở gần ta hoặc ở nơi xa. Đã sanh rồi hoặc sắp sanh ra. Cầu cho tất cả đều an lạc…. Như mẹ hiền thương yêu con một. Dám hy sinh bảo vệ cho con. Với muôn loài ân cần không khác. Lòng từ ái như bể như non. Tung rải từ tâm khắp vũ trụ. Mở rộng lòng thương không giới hạn….. ” (Kinh Từ Bi/Metta Sutta thuộc Tiểu Bộ Kinh, do Hòa Thượng Thích Thiện Châu dịch sang tiếng Việt).

Tâm Từ không phải là tâm yêu thương thiên về dục vọng, không phải lòng luyến ái riêng đối với một cá nhân nào. Người có tâm Từ là người thương mến và mang niềm vui chân thật đến cho tất cả mọi người. Niềm vui này vượt qua niềm vui thế gian tạm bợ!

- Thế nào là niềm vui thế gian tạm bợ? Đó là niềm vui có điều kiện, là niềm vui do thỏa mãn nhu cầu của tham, sân, si, hay niềm vui do thỏa mãn lòng kiêu mạn nhất thời của người đời. Những niềm vui này không bền vững vì nó đến rồi đi nhanh chóng, để lại bao tiếc nuối khiến con người cảm thấy hụt hẫng và phiền muộn. Mất niềm vui này, con người lại trổi lòng tham muốn tìm kiếm niềm vui khác. Nếu không được đáp ứng, con người sẽ rơi vào trạng thái ưu sầu khổ đau. Khi được thì vui, khi mất lại buồn. Cứ mãi như thế,  rồi ngã bệnh. Bệnh về tâm lý và bệnh về sinh lý tức tâm bệnh và thân bệnh. Cho nên sự vui vẻ hạnh phúc được xây dựng trên thỏa mãn tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến … trong nhà Phật gọi đó là niềm vui huyễn hoặc, giả dối, tạm bợ, là niềm vui thế gian, nó chính là nguồn gốc của đau khổ, mà con người sống ở thế gian này, lắm người u mê, lấy đau khổ làm niềm vui vì cho nó là có thật!

- Niềm vui xuất thế gian: Khác với niềm vui của thế gian là niềm vui xuất thế gian. Niềm vui xuất thế gian là niềm vui nhẹ nhàng thanh thoát, là cái vui của cảnh giới giải thoát siêu phàm. Muốn đạt được niềm vui này hành giả phải tu tập đoạn trừ tham sân si tức ly dục, ly bất thiện pháp…  để chuyển hóa tâm phàm phu ích kỷ nhỏ hẹp sang tâm từ bi rộng lớn của bậc Thánh, mà trong nhà Thiền gọi là Chân Tâm hay Tâm Phật.

Tóm lại, tâm Từ vô lượng ở đây nên hiểu là tâm quảng đại thông cảm, thương mến chúng sanh. Tâm muốn mang niềm vui chân thật đến cho mọi người mọi loài, luôn mong mỏi chúng sanh được sống an vui hạnh phúc. Người có tâm Từ sẽ dấn thân vào đời hướng dẫn giáo hóa chúng sanh tu tập vượt thoát nỗi khổ đau trần thế.

 

2) Tâm Bi vô lượng: Bi là đau khổ. Tâm Bi là tâm thương xót rộng lớn trước nỗi đau khổ của chúng sanh. Người có tâm Bi, khi nhìn chúng sanh sầu bi đau khổ, họ cảm thấy như chính họ đau khổ, nên quyết tâm cứu vớt chúng sanh thoát khỏi nỗi khổ niềm đau đó. Người có tâm Bi không chỉ cứu giúp các loài hữu tinh, mà đối với các loài vô tình như cây cỏ hoa lá, họ cũng không làm ngơ. Người có tâm Bi không phải chỉ ngồi yên một chỗ thương xót, mà dấn thân hành động giúp đỡ đối tượng cần giúp. Người thực hành hạnh bố thí, là người có tâm Bi

Giảng về “Khổ”,  đức Phật mô tả nỗi khổ của chúng sanh vô cùng rộng lớn. Khổ bao trùm cả thời gian không gian. Chúng sanhđịa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, A-tu-la chịu khổ là việc đương nhiên. Còn loài người sanh ra ở trần gian này tuy sung sướng hạnh phúc hơn các chúng sanh kia, nhưng cũng không thoát khỏi cảnh khổ. Họ khổ vì tham sân si làm lu mờ lý trí, nhận cái giả làm thật và luôn đắm chìm trong nỗi khao khát hưởng thụ dục vọng. Được thì vui, mất thì khổ. Và ngay cả chúng tiên ở cõi trờithọ mạng được lâu dài, cuộc sống không phải lo nghĩ đến miếng ăn cái mặc như chúng sanhcõi người, nhưng đời sống của chúng tiên đó, không phải lúc nào cũng an vui hạnh phúc, bởi vì khi hưởng hết phước thì họ cũng mang tâm trạng lo sợ, đau khổ khi thấy triệu chứng hoại diệt xuất hiện trên cơ thể họ. Như vậy, tất cả chúng sanh bất cứ sống ở cõi nào, nơi nào cũng không thoát khỏi khổ. Khổ hoài, khổ mãi, cho đến khi nào thoát ra khỏi vòng luân hồi sinh tử, nhập Niết-bàn thì mới chấm dứt khổ. Vì thế nên nói vô lượng chúng sanhvô lượng khổ. Muốn cứu vô lượng chúng sanh thoát khổ, Bồ-tát phải thành tựu vô lượng bốn tâm: Từ, Bi, Hỷ, Xả thì mới làm nổi.

Chư vị Bồ-tát trên con đường tu “Tứ Vô lượng tâm” luôn tìm cơ hội giúp ích cho chúng sanh với nguyện vọng đoạn trừ mọi khổ đau phiền não của chúng sanh và đưa chúng sanh đến bờ an lạc.

Trong kinh có ghi lại lời phát nguyện đại Bi của đức Bồ-tát Quán Thế Âm  rằng: “Nếu thế gian còn người đau khổ thì (Ngài) quyết không thành Phật”. Đức Quán Thế Âmuy lực trùm khắp và được người đời tán thán hạnh tu của  Ngài qua câu niệm: “Nam mô đại từ đại bi tầm thinh cứu khổ cứu nạn linh cảm ứng Quán Thế Âm Bồ-tát ” vì đức Quán Thế Âm Bồ-tát tu hạnh lắng nghe và đạt đến mức tự tánh sâu sắc thượng thừa, nghe được tiếng than khổ của chúng sanh ở khắp mọi nơi. Với lòng từ bi thương xót vô lượng, Ngài sẽ tùy thuận cứu giúp chúng sanh thoát khổ qua nhiều hình thức khác nhau.  Ngoài ra, chúng ta cũng thường biết đến Ngài Địa Tạng Vương Bồ-tát trong kinh qua đại nguyện: “Nếu địa ngục còn có một chúng sanh nào đang chịu khổ thì (Ngài) nguyện không thành Phật”.

 Các vị Bồ-tát nhờ có lòng đại từ đại bi nên đã phát “Bồ-đề tâm” rộng lớn thệ nguyện độ khắp quần sanh. Các Ngài tự cho mình có sứ mạng ra vào trong đường sanh tử, không chấp trụ Niết-bàn,  phát nguyệnđời đời thừa hành Bồ-tát đạo” để gần gủi chúng sanh hầu hóa độ họ theo lời Phật dạy “Chư ác mạc tác/ Chúng thiện phụng hành/ Tự tịnh kỳ ý…  ” nghĩa là xa lìa tội lỗi không làm việc ác, năng làm việc lành, lo tu tập giữ tâm ý trong sạch không còn tham, sân, si… để sớm thoát khỏi vòng luân hồi sanh tử.  Các vị Bồ-tát thực thụ vẫn luôn tu tập như thế! Chúng taPhật tử, muốn thực hành Bồ-tát hạnh, tất phải mở lòng Từ, lòng Bi, thương xót tất cả mọi chúng sanh với tâm bình đẳng, không phân biệt,  nghĩa là phải tu luyện để sớm đạt được lòng Từ, lòng Bi vô lượng.

 

3) Tâm Hỷ vô lượng: Nói cho đủ là “Tâm Tùy Hỷ vô lượng” nghĩa là “vui theo” cái vui của mọi người một cách bao dung rộng lớn. Cái vui theo này không phải là cái vui dựa vào dục vọng, phóng túng phàm tục. Thấy người ta vui vẻ hạnh phúcthành công trong những việc làm ác đức, như kiếm được nhiều tiền nhờ vào cờ bạc, hay lường gạt chiếm đoạt tình cảm, của cải người khác v.v… Gặp những trường hợp này, chúng ta cần phải khuyên ngăn, chứ không vui theo! Nếu chúng ta mừng vui theo họ có nghĩa là chúng ta chấp nhận hành động của họ, vui vẻ khuyến khích họ tiếp tục. Như thế là chúng ta đồng lõa với kẻ hành ác nghiệp. Đây là cái vui tội lỗi không phải là cái vui độ lượng từ bi của người mang lý tưởng tu hành đến bờ giác ngộ giải thoát.

Vui theo những việc làm mang tính đạo đức, vui theo cái vui của những người tu hành đúng chánh pháp, làm việc thiện, bố thí giúp đỡ chúng sanh. Sự vui theo một cách trong sáng này, chính là hành động nuôi dưỡng tâm từ bi của mình, không hề ganh tỵ trước sự thành công của bất cứ người nào. Cái vui này gọi là “tùy hỷ”, là cái vui chân thật giống như cái vui của hàng Bồ-tát độ sanh, khi các Ngài thấy chúng sanh làm những việc lợi ích cho bản thân họ, cho mọi người xung quanh, thấy chúng sanh tu hành đúng chánh pháp, đạt được kết quả mỹ mãn, trong lòng các Ngài tràn ngập niềm vui. Đây không phải là cái vui thường tình của thế gian mà là cái vui cao thượng của chư vị Hiền Thánh.

Như vậy “Tâm Hỷ vô lượng” là lòng vui vẻ rộng lớn phát xuất từ tâm Từ, tâm Bi.  Khi thấy chúng sanh được an vui hạnh phúc hơn mình thì lòng vui mừng, không ẩn chứa sự ô nhiễm mê lầm đố kỵ hẹp hòi của tâm phàm phu, nó là nền tảng  thúc đẩy người tu học Phật sớm thành tựu quả Bồ-đề.

 

4) Tâm Xả vô lượng: Động từ Xả có nghĩa là xả bỏ, buông bỏ, không còn cố chấp, dính mắc với bất cứ những gì đã làm, đã có, đã đạt được kết quả tốt hay chưa tốt về vật chất lẫn tinh thần.  Nói cách khác là không còn chấp có, chấp không, chấp thành, chấp hoại, chấp ngã, chấp pháp, chấp vui, chấp buồn…  Phần đông người chưa tu tập không làm được như vậy, vì với tâm phàm phu luôn vị kỷ. Khi làm được một việc thiện nào thì tự hào, tự đắc, khoe khoang… hoặc mình không làm, thấy người ta làm được việc thì vui vẻ hùa theo để cho mọi người thấy mình cũng có lòng tốt, cũng có góp phần. Sự tùy hỷ giả tạo này không ích lợi gì, ngoài việc tô bồi cho cái Ngã của mình mỗi ngày một thêm lớn. Đó là sợi dây tự mình trói buộc phiền não vào cho mình mà thôi!

Chư vị Bồ-tát thì không như vậy, các Ngài làm việc với tâm Đại Xả, cho nên bước vào cuộc đời nhiểu nhương đau khổ cứu độ chúng sanh, các Ngài không hề bị nhiễm phiền não. Được như vậy là nhờ các Ngài sống với tâm Xả, tâm Không. Do đó, các Ngài đến đi, thong dong tự tại, không gì ngăn ngại.

Tâm Xả còn có một ý nghĩa khác là tâm Định vững chắc của người đạt được tầng Định thứ tư là Định bất động còn gọi là Tâm Như. Người đạt Tâm Như hay Tâm Xã vô lượng là người đạt được cảnh giới thanh tịnh, bình đẳng không còn bị vướng mắc trói buộc bất cứ hình ảnh ấn tượng cảnh vật nào trong tâm họ. Họ sống một cách thong dong, khi nào chúng sanh cần thì họ đến, khi nào xong việc thì họ đi một cách tự tại, vô ngại. Mười phương chư Phật, Bồ-tát đều tu Tâm Xả vô lượngđạt đến kết quả mỹ mãn. Chúng sanh ngày nay muốn đi trên đường giải thoát thì không thể không hành trì tu tập để đạt được Tâm Xả cao thượng này!

 

III. BƯỚC ĐẦU TU “TỨ VÔ LƯỢNG TÂM”

            Là con người không ai là không có từ tâm. Nhưng muốn cho tâm này xuất hiện thường xuyên thì chúng ta cần phải tu tập. Trước hết tu tập tâm Từ tâm Bi qua mắt thấy, tai nghe, thân xúc chạm.

            Khi bất chợt thấy một con chim, con bướm, con ve đậu trên cành cây rơi xuống đất bị tổn thương, người có tâm Từ yếu ớt, trong lòng cũng vấy lên một chút tội nghiệp theo bản năng, nhưng rồi bỏ đi luôn. Qua thời khắc này tâm Từ của người đó biến mất. Nay chúng ta muốn tu tập tâm Từ, gặp trường hợp này, chúng ta không nhìn những con vật cần được giúp đỡ đó bằng ánh mắt thờ ơ, mà là ánh mắt của thương cảm, đó là ánh mắt của tâm Từ, rồi tìm cách giúp nó, đó là tâm Bi.

Thấy một nhánh cây trồng trong vườn bị mưa gió xô ngã, mình nhìn nó bằng ánh mắt tội nghiệp, tìm cách chỉnh sửa cho cây được ngay thẳng và cho thêm đất quanh gốc cây cho nó đứng vững vàng trở lại. Đó là mình đang thực hiện tâm Từ, tâm Bi.

Thấy cây đu đủ hay bất cứ loại cây nào mang trên thân nhiều trái, mình không khởi tâm tham, thỏa mản, thích thú, vì cây có nhiều trái sẽ cho nhiều lợi nhuận mà nghĩ thân cây như người mẹ đang nuôi một đàn con là những trái bám vào thân cây đang hút nhựa sống từ thân mẹ, mình khởi lòng thương,  phân bón và tưới nước cho thân cây mẹ có sức mà nuôi con. Đó là mình có tâm Từ tâm Bi.

Thấy một con vật nào vô ý rơi vào lu nước, mình tội nghiệp vớt ra cứu sống nó. Đó là hành động thể hiện tâm Từ tâm Bi. Đi đường thấy một bà lão lụm khụm ôm một túi xách nặng nề mình phát tâm khiêng giúp. Hay trên xe buýt, không còn chỗ ngồi, thấy người già hay khuyết tật, mình cảm thấy thương cảm nhường chỗ ngồi của mình cho họ thì đây cũng là hành động của người có tâm Từ tâm Bi.

            Trên đường lái xe đi làm về, thấy một chiếc xe rồ máy qua mặt  các xe khác rồi vượt đèn đỏ, chúng ta thường khởi tâm bực bội mong người lái chiếc xe đó bị cảnh sát công lộ chận phạt, hoặc trong đầu khởi lên ý nghĩ: “Lái xe bạt mạng cái kiểu ngang tàng như vậy, trước sau gì cũng xảy ra tai nạn nguy hiểm đến tính mạng, lúc đó thì chớ trách !” Những ý nghĩ này tuy là bình thường hợp lý, bởi lái xe phạm luật như vậy rất dễ gây tai nạn chết người, hoặc nếu bị cảnh sát bắt gặp thì lãnh giấy phạt là cái chắc. Nhưng trong nhà Phật thì đó là những ý nghĩ bất thiện chứa mầm móng sân giận của mình. Gặp trường hợp này, mình không cần khởi tâm sân giận là tâm ác tạo nghiệp cho mình làm chi. Ở đời nghiệp ai làm người đó chịu! Nếu tu tập thiền Huệ thì chúng ta tập nhìn thấy như thật (yathà bhùta). Sai biết sai, đúng biết đúng, tâm không phản ứng, bởi vì có phê bình chê trách thì người đó cũng đâu có nghe, đâu có biết mình suy nghĩ gì?!

Còn như hôm nay, thực tập tâm Từ chúng tanhư lý tác ý” điều lành trong tâm. Đó là, khi thấy những cảnh tượng xảy ra trên đường lái xe về nhà như vậy, mình động lòng thông cảm, chắc là gia đình người ta đang có chuyện gấp, cần giải quyết chẳng hạn như vợ đau bụng sắp sanh, hay cha mẹ già đau ốm, hoặc con cái gặp rắc rối gì đó, hay chính bản thân người lái xe có chuyện buồn bực lo lắng điều chi nên mới gấp như vậy thôi! Nếu mình ở trong hoàn cảnh như họ, tâm mình cũng sẽ rối lên, và lái xe bất cẩn như họ vậy! Chỉ cần phát tâm thông cảm như thế, trong lòng mình sẽ tự dưng mong muốn cho đối phương sớm về tới nhà bình an để giải quyết được chuyện rắc rối. Như thế là tâm Từ đã xuất hiện trong con người của mình rồi. Cứ tập hoài như vậy, tâm Từ tâm Bi có sẵn trong tâm của chúng ta sẽ xuất hiện thường xuyêntự nhiên hơn.

 

IV. THIỀN QUÁN “TÂM TỪ”

Có pháp tu “Quán Tâm Từ” trong lúc ngồi thiền. Quán ở đây là tưởng tượng xung quanh mình có vô lượng chúng sanh. Chúng sanhhình tướngchúng sanh không có hình tướng. Trong lúc tọa thiền mình khởi lòng mong muốn hay cầu nguyện cho tất cả các chúng sanhmười phương bao quanh mình thành vòng tròn như Đông, Tây, Nam, Bắc, Đông-Tây, Tây-Nam, Nam-Bắc, Đông-Bắc, hướng ở trên và hướng ở dưới.

Mới ban đầu thì thiền giả quán đến các chúng sanh ở trong cơ thể mình, mong cho các sinh vi khuẩn, các tế bào trong người mình được hài hòa, mát mẻ, dễ chịu, mong cho mình được khỏe mạnh, bình yên, tâm Bồ-đề kiên cố, việc tu hành không bị trở ngại v.v… Tiếp theo hành giả cũng quán những điều thiện lành như thế đến với các chúng sanh bên ngoài xung quanh mình. Sau đó, từ từ nới rộng vòng tròn không gian mỗi lúc một lan rộng ra mười phương.  Cứ tu tập như vậy lâu ngày, tâm Từ của thiền giả sẽ phát huy lan rộng theo vòng tròn quanh mình vững chắc, tạo từ trường năng lượng từ bi đến môi trường xung quanh.

Tâm Từ thường xuyên xuất hiện thì tâm Sân ngày càng yếu đi. Khi tâm Từ vững chắc thì tâm Bi sẽ xuất hiện. Tâm Bi xuất hiện thì thiền giả không thể làm ngơ trước sự đau khổ của những người xung quanh. Vị ấy sẽ phát tâm bố thí, giúp đỡ. Khi có tâm bố thí thì tâm tham của người đó mỗi ngày một yếu đi. Khi thấy người ta vui vẻ hạnh phúc thì tâm Hỷ xuất hiện. Mà tâm Hỷ xuất hiện thì thiền giả dẹp được tâm ganh ghét đố kỵ. Người nào sống với tâm Từ Bi Hỷ Xả là người đó đang sống trong tâm quảng đại, là người đang trên đại lộ đi đến giác ngộ giải thoát.

 

V. KẾT LUẬN

Tứ Vô Lượng Tâm” là bốn trạng thái của tâm Bồ-tát. Bốn tâm này liên kết với nhau thành tâm quảng đại trùm khắp. Khi tâm quảng đại xuất hiện, thì tâm nhỏ hẹp biến mất. Người đạt được tâm quảng đại sống thong dong tự tại, lúc nào họ cũng có tâm nguyện mang niềm vui hạnh phúc đến cho mọi người mọi loài một cách tự nhiên.

Vì sự lợi ích của vô lượng chúng sanh, nên chư Phật, chư Bồ-tát dùng pháp môn này để nhiếp hóa chúng sanh, đưa chúng sanh vượt qua biển sinh tử tới bờ giác ngộ giải thoát.

“Tứ Vô Lượng Tâm” là bốn đức tánh thanh tịnh có sẵn trong mỗi chúng sinh, nhưng vì tham, sân, si, mạn, nghi, cố chấp, phiền não…  làm cho bốn đức tính đó bị lu mờ. Nay hiểu rõ lợi ích của pháp mônTứ Vô Lượng Tâm”, chúng ta hãy tự khởi tâm thương mến chúng sanh không phân biệt thân sơ, mang niềm vui đến cho mọi người, đồng thời giúp đỡ, an ủi những ai đang ở trong tình trạng khốn khó khổ đau, đó là chúng ta đang hành trì tâm Từ, tâm Bi. Sống vui với niềm vui của tất cả mọi người không phân biệt kẻ thù người thân đó là tâm Tùy Hỷ. Luôn sống trong tâm Xả là tâm bình thản không dính mắc với những việc mình đã làm giúp người dù thành công hay thất bại. Thất bại thì tìm phương thức khác để tiếp tục giúp đỡ. Thành công thì không dính mắc với sự thành công. Đó là chúng ta sống trong tâm Xả. 

Tóm lại, là Phật tử phát Bồ-đề tâm, thực hành hạnh Bồ-tát, ban đầu chúng ta tập khơi sáng bốn ngọn đuốc Từ, Bi, Hỷ, Xả trong tự tâm. Siêng năng hành trì bốn tâm này, để ánh hào quang của bốn ngọn đuốc Từ, Bi, Hỷ, Xả ngày một sáng tỏ, lan truyền tới mọi người quanh mình, như chư vị Bồ-tát thương xót cứu giúp vô lượng chúng sanh thoát khỏi vô lượng nỗi khổ, đạt giác ngộ giải thoát. Được như thế thì ngay bản thân của mình dù không cầu mong vẫn được an vui hạnh phúc. Nếu nói đến công đức, thì công đức vô lậu của việc hành trì pháp tu “Tứ Vô Lượng Tâm” chính là nền tảng đưa vị đó tới quả vị Bồ-đề./.

 

THÍCH NỮ HẰNG NHƯ

( Thiền thất Chân Tâm, 15-7-2021)

Send comment
Off
Telex
VNI
Your Name
Your email address
Thursday, September 5, 20247:55 PM(View: 86)
Quán các cảm thọ, là quan sát, ghi nhận sự sanh khởi của Thọ uẩn: Đây là Thọ khổ, đây là Thọ lạc, đây là Thọ xả, đây là Thọ liên hệ vật chất, đây là Thọ không liên hệ vật chất. Niệm Thọ để thấy tính sanh diệt, vô thường, khổ, vô ngã của Thọ uẩn...
Wednesday, August 28, 202410:43 AM(View: 275)
Những đo đạt sau cùng của Thiền sư Thích Thông Triệt đã được thực hiện vào ngày 8 và 9 tháng 6 năm 2013. Tôi tường trình ở đây một số kết quả từ những thực nghiệm này kết hợp với kỹ thuật chụp ảnh chức năng cộng hưởng từ (f-MRI) và điện não đồ (EEG, 256 channels).
Wednesday, August 21, 20248:40 AM(View: 422)
La retraite de cette année à Toronto a réuni de nombreux méditants chevronnés y participent. Je sais qu'ils veulent simplement venir me rendre visite. Ils ont déjà maîtrisé le chemin de pratique, ayant étudié directement avec le Maître il y a de nombreuses années. C'est pourquoi, cette année, simplement un résumé de la théorie et de la pratique est présenté, afin d'aider chacun à maîtriser les étapes sans craindre de se tromper.
Monday, August 19, 202411:57 AM(View: 425)
1- Hầu hạ cha mẹ là pháp được người hiền trí tuyên bố - Kinh BỔN PHẬN – Tăng Chi Bộ I, tr270 2.- Được chấp nhận ngang bằng với Phạm Thiên. Kinh BẰNG VỚI PHẠM THIÊN – Tăng Chi Bộ I, tr 684 3.- Làm sao trả ơn đủ cho cha mẹ - Kinh ĐẤT – Tăng Chi Bộ I, tr 118
Thursday, August 15, 20247:28 PM(View: 338)
Le perfectionnement spirituel est un processus qui va du simple au plus difficile; la connaissance associée est peu solide au début, mais elle est progressivement transformée par l'apprentissage pour devenir de plus en plus explicite et solide.
Sunday, August 4, 202410:43 AM(View: 492)
Bằng những kỹ thuật của Thiền, ta có khả năng điều chỉnh được bệnh tâm thể. Chỉ vì bệnh tâm thể do những trạng thái tâm rối loạn như lo âu, sợ hãi, uất cảm, giận tức, sầu khổ, trầm cảm dây dưa gây ra. Trong lúc đó mục tiêu nhắm đến của Thiền, trước tiên là điều chỉnh những rối loạn của tâm. Thiền làm cho tâm được thư giãn, thanh thản, phấn chấn, và an tịnh.
Sunday, August 4, 202410:43 AM(View: 821)
Uất cảm được định nghĩa là sự biểu lộ trạng thái tâm lý biến động, căng thẳng, không quân bình hay không xứng hợp giữa tri giác và nhận thức về những yêu cầu (demands), nhu cầu (needs), hay khả năng đối phó trước những tình hình khẩn trương đang xảy ra.
Tuesday, July 23, 20245:00 PM(View: 861)
VIDEO& SLIDES: Ni sư Triệt Như Giảng Đại Chúng: TỔNG KẾT NHỮNG CÁCH TẬP THIỀN ngày 13 THÁNG 7, 2024 tại THIỀN ĐƯỜNG TÁNH KHÔNG Nam Cali
Sunday, July 21, 202411:46 AM(View: 527)
Zum Schluss: Was ist es? Meine Antwort lautet vorläufig: Es ist die Natur.“ Es ist es".
Tuesday, July 16, 20247:58 PM(View: 785)
VIDEO Ni sư Triệt Như Giảng Đại Chúng tại Thiền Viện Tánh Không ngày 6 tháng 7, 2024 với chủ đề: NGHỆ THUẬT SỐNG GIỮA THẾ GIAN
Monday, July 15, 20244:07 PM(View: 531)
Es gibt zwei Faktoren, die zum Leid führen können. Es sind „Bonsai“ und „Mein“. Weil er mein ist, bedauerte ich sehr, als er eingegangen ist. Weil er mein ist, habe ich ihn ins mein Zimmer gestellt. Nicht nur ich habe eine Vorliebe für die Bonsai-Bäume.
Tuesday, July 9, 20248:40 PM(View: 678)
Pháp tu quán Thân giúp hành giả nhận ra cấu trúc của con người chỉ là Ngũ uẩn, là Danh sắc. Danh sắc thuộc pháp hữu vi, có điều kiện, nên Ngũ uẩn chịu quy luật Vô thường-Khổ-Vô ngã, và có mặt ở trên đời này theo chu kỳ Sinh-Trụ-Hoại-Diệt.
Saturday, July 6, 20243:07 PM(View: 651)
Ni sư Triệt Như Audio: Bài 237 - TỔNG KẾT VỀ DHAMMA 5-5-2024 TOULOUSE song ngữ
Friday, July 5, 20247:25 AM(View: 1060)
Kết lại, tất cả, nó là cái gì? Mình xin tạm trả lời “Nó là thiên nhiên. Nó là Như Vậy”.
Thursday, July 4, 20241:13 PM(View: 532)
Als Buddhistin habe ich auch Ehrfurcht vor dem Buddha und ich habe geglaubt, dass der Bodhi-Baum mir eine erleuchtete Weisheit darstellt. Daher gab es eine Zeit, in der ich mir einen eigenen Bodhi-Baum im Zimmer wünschte.
Monday, July 1, 202410:03 AM(View: 922)
Qua số phận của cây bồ đề bonsai của mình, mình nhận ra tất cả vấn đề nằm ở 2 chỗ, 1 là “bonsai”, 2 là “của mình”. Vì là “của mình” nên mình mới xót xa, băn khoăn khi nó héo khô. Vì là “của mình” nên nó phải là "bonsai" để trang hoàng trong nhà cho mình ngắm.
Monday, June 24, 20242:07 PM(View: 794)
Theo quan niệm nhà Phật thì con người tự ràng buộc mình trong nỗi khổ đau do chính mình gây ra (từ nghiệp cũ, nghiệp mới, ngũ dục, ngũ trần, tham, sân, si). Muốn thoát khổ thì phải tự mình tháo gở những sợi dây ràng buộc đó, chứ không Thần Phật nào cứu rỗi, ban ơn, giáng họa cho mình.
Monday, June 24, 202411:03 AM(View: 671)
Nun habe ich erfahren, dass jeder Baum ein Bodhi-Baum ist, dass jede Blume, jede Blüte, jede Landschaft eine ultimative Realität offenbart. Jede Blume, jede Zierpflanze ist also ein „Bodhi-Baum“ und keiner davon ist mein eigener „Bodhi-Baum“.
Monday, June 24, 202410:12 AM(View: 907)
Vénérable Bhikkhuni Triệt Như Audio: N° 231 - ANUPASSANA - VIPASSANA - Traduit en français par Nhất Hòa et Marc Giang
Monday, June 24, 20249:45 AM(View: 965)
Vénérable Bhikkhuni Triệt Như Audio: N° 230 LES ÉTAPES DE PRATIQUE DE LA MÉDITATION Traduit en Français par Marc Giang et Nhất Hòa
Tuesday, June 18, 20242:30 PM(View: 1270)
Người Phật tử có lòng tôn kính đức Phật, thường có lòng biết ơn cây bồ đề, mình lại nghĩ thêm rằng cây bồ đề biểu hiện cho trí tuệ giác ngộ, nên đã có lúc phóng tâm muốn có một cây bồ đề xanh tươi của riêng mình.
Wednesday, June 12, 20249:35 AM(View: 946)
VIDEO Ni sư Triệt Như Giảng Đại Chúng tại Thiền Đường Tánh Không Nam Cali ngày 8 tháng 6, 2024 với chủ đề: PHÁP
Tuesday, June 11, 202411:40 AM(View: 1421)
Mà bây giờ mình đã biết, cây nào cũng là cây giác ngộ, hoa lá, cảnh vật nào cũng hiển lộ thực tại cuối cùng. Vậy thì cây cảnh hoa lá nào cũng là "cây bồ đề", đâu có cái nào là của riêng mình đâu ?
Monday, June 10, 20241:27 PM(View: 904)
Từ ngữ Pháp, từ xưa tới giờ có rất nhiều ý nghĩa và ý nghĩa của nó rất rộng cho nên cô tạm gom lại để phân ra ba nội dung khác nhau tức là có thể xếp vào ba ý nghĩa khác nhau của từ Dhamma.
Sunday, June 9, 20249:11 PM(View: 679)
Als ich heute Nachmittag den Vorgarten des Sunyata-Zentrums betrachtete, der mit schwarzer und fruchtbarer Erde bedeckt wurde, fühlte ich mich glücklich. Liebe Freunde, wenn der Geist unbedeckt ist, strahlt das Weisheitslicht von selbst aus!
Saturday, June 8, 20249:28 PM(View: 905)
LA VOIE DE PERFECTIONNEMENT: LA VERTU, LA STABILISATION DU MENTAL, LA SAGESSE - Traduit en Français par Nhất Hòa et Marc Giang
Saturday, June 8, 20249:25 PM(View: 904)
LE PROCESSUS DE PRATIQUE PAR L'AUDITION ET LA VISION - Traduit en Français par Nhất Hòa et Marc Giang
Saturday, June 8, 20249:25 PM(View: 908)
LA VOIE DE PERFECTIONNEMENT DES BHIKKHUS AU TEMPS DU BOUDDHA - Traduit en Français par Nhất Hòa et Tâm Minh.
Wednesday, June 5, 20245:06 PM(View: 850)
Tứ Niệm Xứ là con đường duy nhất giúp thanh tịnh chúng sanh, diệt trừ khổ ưu, quả là lời hứa tuyệt vời của đức Thế Tôn. Với pháp môn này, đức Phật dạy hành giả trực tiếp quán thẳng vào bốn xứ thuộc thân-tâm để nhận ra thân, thọ, tâm, pháp thực chất của nó là vô thường, bất như ý, vô ngã.
Monday, May 20, 202410:22 AM(View: 863)
La retraite de Sunyata Toulouse à Moissac, dans le sud-ouest de la France, est terminée et nous sommes retournés à nos vies quotidiennes. En revoyant les images de ces jours de paix, de sérénité et de bonheur, en compagnie d'amis méditants d'ici et d'ailleurs, mon cœur ne peut s'empêcher d'évoquer quelques attachements et souvenirs.
Monday, May 20, 202410:11 AM(View: 1063)
Wenn der Geist ein Objekt wahrnimmt, nimmt er „was gerade ist“ wahr. Wenn er aber in sich kehrt, nimmt er „die Soheit „(Tathatā/ the Suchness) wahr. Hier endet alles, es gibt keine Worte, keine Schrift, keine Namen, keine Außenwelt, kein Denken, keine Diskriminierung, keine Liebe, keinen Hass mehr. Alles ist gleichwertig. Haben die Partriarchen Recht, dass „die Erleuchtung bereits im Augenkontakt liegt“?
Monday, May 13, 20245:16 PM(View: 920)
Thiền Chỉ, tiếng Pali là “Samatha”. Nó có một từ nữa mang nghĩa tương đồng gọi là “Samadhi”, tức là Định. “Chỉ” là dừng lại. “Thiền Chỉ” hay “Thiền Định” là trạng thái tâm chuyên chú vào một cảnh, một đề mục, khiến cho mọi vọng tưởng đều ngưng bặt, tạo sự an vui (sukkha) hỷ lạc cho hành giả.
Thursday, May 9, 20244:00 PM(View: 1342)
Chiều nay, ngắm nhìn khoảng sân rộng trước tổ đình sạch bót, một màu đen phì nhiêu, đất xốp, sẵn sàng chờ đón được gieo trồng, mình cảm thấy vui. Các bạn hiền ơi, đất tâm nếu trống không, mặt trời trí tuệ sẽ tự chiếu!
Wednesday, May 8, 20247:45 AM(View: 732)
Also: „Alle Dharmas kehren zu einem zurück, wo ist dieses Eine?“ Es kann sein, dass alle Dharmas zu dem Geist zurückgeht. Nun verstehen wir vielleicht, warum die Patriarchen damals gegangen sind, ohne jegliche Spur hinterlassen zu haben, als sie gegangen sind. Das Prajnaparamita-Sutra hat jedoch unendlich über die Leere, Illusion und Soheit berichtet.
Friday, May 3, 20246:55 PM(View: 847)
It is normal, natural, and reasonable that mundane phenomena emerge, change then terminate. If we could grasp that comprehension, when something appears or disappears, we are neither cheerful nor sorrowful. Then, our mind is serene and peaceful. And we realize that everywhere is our original adobe, every phenomenon, fact, event, situation or being, carries the truths of transience, the principles of cause-responded conditions, non-selfness, and the trait of bareness… The Dharma sounds from our Lord have been roaring and echoing in the infinite universe. As a result, the planet where we are now is the Buddha’s very realm, my dearest friends.
Thursday, May 2, 20243:30 PM(View: 1498)
Phải thông hiểu tới những chân lý rốt ráo: bản chất của thế gian là trống không, là như huyễn, do nhân duyên hội họp mà sinh ra, rồi sẽ thay đổi, và sẽ mất đi. Mình sẽ bớt dính mắc với những cảnh thăng trầm trong cuộc đời. Đây là trí tuệ xuất thế gian, giúp mình sống bình an trong đời.
Wednesday, May 1, 20246:56 AM(View: 965)
Der Wagen „mit einem Gang“ ist die wortlose Achtsamkeit (Sati), die uns vom Anfang bis zum Ende des Kultivierungsweges begleitet. In Wirklichkeit gibt es aber keinen Weg, der uns zur Erleuchtung bringt. Denn dieses wortlose Bewusstsein gehört uns von der Geburt an. Es war und ist rein, ruhig, klar und objektiv. Liebe Freunde, hole dieses wortlose Bewusstsein von Innen heraus. Suche es nirgendwo draußen.
Friday, April 26, 202411:42 AM(View: 1330)
Khi nó thấy cảnh, thì nó thấy “cái đang là”. Khi nó an trú trong chính nó, thì nó thấy “cái như vậy” (Tathatā/ the Suchness). Bây giờ, mọi sự đều chấm dứt, không có lời nói, không có văn tự, không có tên gọi, thế gian cũng không còn. Không suy nghĩ, không phân biệt, không thương ghét, tất cả tan biến, bình đẳng. Có phải cổ nhân đã nói đúng “chạm mắt là bồ đề”?
Sunday, April 21, 20242:20 PM(View: 1980)
Vậy thì “Muôn pháp về một, một về chỗ nào?” có thể là muôn pháp đều về tâm, còn nếu thắc mắc: tâm về chỗ nào? Thì ăn gậy là phải rồi. Bây giờ mới hiểu tại sao chư Thiền Đức ngày xưa ra đi không cần lưu lại dấu vết mà hê thống kinh Bát nhã ba la mật lại viết tràng giang đại hải về Không, Huyễn và Chân Như. Có phải vì chỗ đó ngoài ngôn ngữ, còn nếu dùng ngôn ngữ thì nói hoài cũng không xong?
Saturday, April 20, 20246:38 AM(View: 1043)
Also durch die Sinnesorgane nehmen wir also, „was gerade ist“, eine reale Sache wahr, das heißt, wir nehmen es wie eine reale Sache, obwohl es nicht echt ist. Ebenso ist ihre Stabilität, ihre Dauerhaftigkeit eine „Illusion“... Das Reale besteht darin, Phänomene durch die Sinnesorgane wahrzunehmen und die Illusion besteht darin, die Essenz eines Phänomens durch eine Weisheit zu verstehen.
Wednesday, April 17, 20242:27 PM(View: 1078)
Tu tập theo đạo Phật không phải để sở hữu được điều gì, mà thực ra là để buông xả không bám víu với bất kỳ những gì ở trên đời... mà chỉ nhận biết rõ ràng pháp đến rồi đi, đó là điều tự nhiên của vạn pháp. Và sự đến đi đó, là bài học “sinh diệt, vô thường, vô ngã” giúp cho chúng ta không bị dày vò phiền não khi nghịch cảnh đến, hoặc quá đắm chìm mê say hưởng khoái lạc, khi duyên thuận lợi đến với mình, mà phải sống trong trung đạo vừa phải.
Tuesday, April 16, 202411:33 AM(View: 1064)
Therefore, with our senses, we feel the “what-is.” It is the “As-Is Truth,” “Yathābhūta,” which is akin to the Truth, but it is not truly stable and permanent. It is also the “As-Is Delusion,” akin to a dream... The “As-Is Truth,” is the phenomena perceived by human senses and the latter, the “As-Is Delusion,” the Nature recognized by the Prajña Wisdom.
Sunday, April 14, 20245:07 PM(View: 1885)
Cảnh sanh khởi, biến đổi rồi hoại diệt của thế gian là tự nhiên, là bình thường, là hợp tình hợp lý. Nếu hiểu thật sự điều này thì khi cái gì đó sanh ra hay diệt mất, ta không vui cũng không buồn. Bây giờ tâm bình an, thanh thản, bây giờ mới thấy nơi nào cũng là ngôi nhà xưa của mình, cảnh nào cũng hiển lộ những chân lý vô thường, duyên sinh, vô ngã, bản thể trống không… Pháp âm của Phật vang rền khắp hư không, như vậy cõi này đang là cõi Phật đó, bạn hiền ơi.
69,256