Triệt Như - Tâm Tình Với Nhau - BÀI 96
Bài này xem như tóm kết lại 4 bài trước có câu hỏi về sợi chỉ đỏ xuyên suốt xâu chuỗi bồ đề của Đức Phật, xâu chuỗi bồ đề của chư Tỷ kheo bậc thánh đệ tử của Đức Phật, xâu chuỗi bồ đề của Bồ tát và xâu chuỗi bồ đề của chúng ta. Bốn trường hợp này tạm biểu hiện cho 4 đường lối tu có chút ít khác biệt, chỉ vì căn cơ khác biệt và mục tiêu khác biệt.
1- Tỉnh ngộ: là điều kiện đầu tiên, để từ bỏ lối sống thường tình của thế gian. Tuy nhiên đối với Đức Phật sức mạnh của tỉnh ngộ trong buổi ban đầu như một nhát gươm bén, dám cắt đứt tất cả mọi sợi dây trói buộc của: tài, sắc, danh, thực, thùy. Cho nên sự tỉnh ngộ của Đức Phật đã là biểu hiện của trí tuệ, của căn cơ bậc thượng trên đời. Cho tới bây giờ chưa ai so sánh được, chưa có ai đầy đủ tài, sắc, danh, thực, thùy mà dám từ bỏ tất cả, mặc dù sau này đã có sẵn con đường đi rõ ràng do Đức Phật trình bày. Các vị Tỷ kheo sau khi gặp và nghe pháp từ Đức Phật, đều phát tâm xuất gia theo Pháp và Luật của đức Phật. Thật là có đầy đủ phước báu, thuận duyên. Họ thuận duyên hơn Đức Phật. Họ có vị Thầy, là Đức Phật trực tiếp dẫn đường, khỏi phải dò dẫm gian nan như Đức Phật khi trước. Cho nên sự tỉnh ngộ của chư Tỷ kheo không đòi hỏi phải quyết liệt sắc bén như gươm. Về sau, Bồ tát đạo mới thành hình. Phật giáo Phát triển chủ trương không đòi hỏi xuất gia, người cư sĩ có gia đình vẫn tu được. Tuy nhiên trong thực tế, còn vương vấn gia đình là một chướng ngại không nhỏ. Vì thế, mẫu Bồ tát lý tưởng được trình bày trong bộ kinh Duy Ma Cật là 2 vị Bồ tát:
- Ngài Văn Thù Sư Lợi: là một vị Bồ tát xuất gia, công đức và trí huệ phi thường.
- Ngài Duy Ma Cật: là một vị Bồ tát cư sĩ, tuy còn sống trong đời, nhưng không vợ con, hạnh sống trong sạch, công đức và trí tuệ cũng phi thường.
Sự tỉnh ngộ của chúng ta có lẽ ở mức yếu nhất, vì chúng ta còn có gia đình, còn ông bà, cha mẹ, bà con. Gánh nặng gia đình về tiền bạc, về tình cảm, cách ứng xử, làm sao cho chu toàn, cho vui lòng tất cả.
Bước đầu tiên, chúng ta đã không thuận lợi, vì thế phải bù lại, đó là cần nhiều thời gian, kiên nhẫn hơn nữa mới mong có kết quả tốt.
2- Khổ hạnh: Đức Phật phải trải qua 2 giai đoạn tu thất bại. Ngài mất 6 năm, thực hành tất cả những cách tu phổ thông của thời ấy, mà cách nào ngài cũng thực hành tinh tấn và khốc liệt: tu 4 tầng thiền vô sắc, thử tất cả những cách khổ hạnh về ăn, uống, mặc, ngủ trong rừng sâu, thực hành thở bằng cách nín thở v.v...Kết quả sức khỏe kiệt quệ, ngài mới tỉnh ngộ, nhận ra Trung đạo ở bước đầu tiên: lợi dưỡng quá mức và khổ hạnh quá mức đều sai. Tuy vậy, nhờ khổ hạnh, ngài đã làm chủ được những dục lạc: tài, sắc, danh, thực, thùy trong mức độ sâu hơn.
Về sau, ngài hướng dẫn lại các vị Tỷ kheo về Giới luật để gìn giữ đời sống trong sạch, và khuyến khích đời sống viễn ly: khất thực, ẩn tu trong rừng núi vắng vẻ, tránh nơi ồn náo đối với tỷ kheo bắt đầu tu. Sau khi sạch hết lậu hoặc, tức đạt quả A la hán rồi, ngài mới khuyến khích đi vào đời tùy duyên giáo hóa. Đối với các vị Bồ tát thì cũng giữ gìn Giới đức trang nghiêm, chứ không theo khổ hạnh.
Còn cư sĩ chúng ta có 5 giới thôi khi quy y Tam Bảo. Năm giới này cũng rất quan trọng để trong sạch tâm, không tạo nghiệp xấu. Mình áp dụng 5 giới này nghiêm chỉnh cũng nâng cao phẩm hạnh, giúp nhiều cho việc tu Định và Huệ sau này.
3- Quyết tâm: Đây là một điều kiện quan trọng, cả 4 căn cơ (Phật, Tỷ kheo, Bồ tát, và chúng ta) đều phải có quyết tâm, đi đến cùng, không thoái chuyển. Tuy nhiên, xét kỹ, mình sẽ nhận ra có hơi khác nhau. Đức Phật quyết tâm đi tìm con đường thoát ra khỏi già- bệnh và chết, cho mình và cho mọi người. Kết quả của quyết tâm này là rời bỏ gia đình, có nghĩa rời bỏ tình luyến ái của cha mẹ, vợ con, rời bỏ đời sống giàu sang, danh vọng, ra đi, mà chưa biết đi về đâu, phương cách tu tập nào đúng. Các vị Tỷ kheo thời ấy có nhiều thuận duyên, đã biết có vị Thầy, là đức Phật, biết con đường chắc chắn là con đường mà Thầy mình đã đi, tin tưởng nơi vị Thầy, nơi trí tuệ của vị Thầy. Nên các vị Tỷ kheo cần quyết tâm cho tới cùng. Sợi chỉ đỏ xuyên suốt xâu chuỗi bồ đề của chư tỷ kheo thời đó là quyết tâm đi theo Đức Phật. Các vị Bồ tát cũng cần quyết tâm không thoái chuyển vì con đường của Bồ tát dài thăm thẳm, đời đời tái sanh để trọn vẹn công hạnh giáo hóa chúng sanh. Còn chúng ta, cũng có quyết tâm, nhưng gánh nặng gia đình chắc là ưu tiên hơn, nên quyết tâm của mình chưa vững chắc.
4- Trí huệ: Đức Phật giác ngộ không do một vị thầy nào. Mình thử suy gẫm lại. Từ đầu, tại sao ngài thấy cảnh một người già yếu, một người bệnh hoạn, một người chết thì tâm chấn động? Tại sao nhìn thấy một vị tu sĩ thì biết cách giải quyết vấn đề: làm sao thoát ra khỏi biển khổ? Tại sao tu 4 tầng thiền vô sắc mà biết là không đúng và bỏ đi? Tại sao rời bỏ khổ hạnh? Tại sao từ tầng Thiền I biết tiến lên tầng Thiền II, rồi biết tiến lên tầng Thiền III, tầng Thiền IV? Câu trả lời là: ngài đã có trí huệ phi thường, tức là sự hiểu biết sắc bén. Chúng ta thấy suốt những chặng đường, không có vị thầy nào ở bên cạnh để hướng dẫn ngài. Cho nên sợi chỉ đỏ xuyên suốt xâu chuỗi bồ đề của Đức Phật, chính là Trí huệ của tự thân, không vay mượn từ người khác. Khi giảng dạy lại cho đệ tử, các vị tỷ kheo chưa có trí huệ như đức Phật, nên ngài nhấn mạnh tới hạnh đa văn. Tỷ kheo phải nghe pháp nhiều nơi Phật, hay nơi các đại đệ tử của Phật, rồi thực hành. Các vị Bồ tát cũng tu Định và Huệ, như trong bài Thập Địa Bồ tát, với chủ đề chân như. Còn chúng ta, cũng áp dụng nghe pháp nhiều, giúp có tuệ trí, rồi mới thực tập Quán- Chỉ- Định- Huệ từ từ. Đối với chúng ta, đúng pháp của Phật là quan trọng, nhưng chúng ta căn cơ trung bình nên chúng ta cũng cần một vị thầy giảng giải đúng pháp.
5- Ẩn tu: Đức Phật thường ca ngợi hạnh sống viễn ly. Viễn ly gia đình, bà con, bạn bè, viễn ly chỗ phố chợ đông người, tìm nơi vắng vẻ để an trú ban ngày, ban đêm. Ngay cả sau khi thọ thực buổi trưa xong, các vị tỷ kheo, tỷ kheo ni, và ngay cả đức Phật, thường tìm nơi vắng vẻ, như dưới một gốc cây trong rừng, ngồi nghỉ trưa. Nhưng trái lại các vị theo bồ tát hạnh lại thường ra vào nơi đông người để có nhiều duyên giúp đỡ hay giáo hóa. Các vị bồ tát luôn sống trong đời, mà không nhiễm bụi đời. Còn chúng ta là cư sĩ, còn sống trong vòng ràng buộc chặt chẽ của gia đình, thấy có trách nhiệm với gia đình, nên chỉ có thể được tự tại một cách tương đối.
6- Thiền Định: Đức Phật sáng đạo qua 4 tầng Thiền, cũng gọi là 4 tầng Định. Ngài căn cơ bậc thượng, giới đức, phước báu, công hạnh đầy đủ rồi. Khi giảng dạy cho đệ tử, ngài dùng nhiều phương tiện vì nhiều căn cơ khác nhau. Khi thì dùng Giới luật, khi thì dùng Quán chiếu (bài kinh Vô ngã tướng, bài kinh Đoạn tận ái), khi thì dùng Định (Định niệm hít và thở ra), hay Huệ (Như Thực), Định và Huệ đồng thời (Tứ Niệm xứ), Giới Định Huệ (Bát chánh đạo) v.v...Các vị Bồ tát thường tu tập trong khi đi giáo hóa. Theo Thập Địa Bồ Tát, bước thứ 1 đã nhận ra ý nghĩa chân như. Do đó, sợi chỉ đỏ xuyên suốt xâu chuỗi bồ đề của bồ tát là nhận thức biết. Những bước đầu còn có lời, tới 3 bước cuối là Nhận thức không lời Như vậy / trống rỗng.
Còn chúng ta nhiều căn cơ khác nhau nên tu tập nhiều phương thức tùy theo khả năng của mình. Sợi chỉ đỏ xuyên suốt xâu chuỗi bồ đề của mình là cái Biết. Khi còn nghe pháp, tìm hiểu kinh điển, là cái Biết có lời, nhưng bắt đầu trong sạch, không có pháp bất thiện. Tới khi tâm bình an, kinh nghiệm Biết không lời. Thực hành hoài với chủ đề Như Thực, sẽ tiến lần tới Nhận thức Như vậy. Và cũng là cái Tự Biết hay Tự Nhận Thức Biết không lời hay Tự Nhận thức biết Trống rỗng, là bước cuối cùng.
7- Quả vị Phật: Đức Phật, với căn cơ bậc thượng, với gươm bén trí huệ, cắt đứt lậu hoặc, cắt đứt tầm và tứ, cắt đứt cảm thọ và tưởng, đạt được sự chứng ngộ vô thượng, đồng với chư Phật ba đời. Ngài là bậc Arahant chánh đẳng giác. Các vị tỷ kheo khi sạch lậu hoặc, cũng là Arahant, nhưng chưa được danh xưng “chánh đẳng giác”, cũng nhập niết bàn (nibbāna). Tuy nhiên chỉ chư Phật mới nhập Parinibbāna. Còn các vị bồ tát chủ trương không trụ niết bàn mà tái sanh đời đời để giáo hóa chúng sanh. Chúng ta thì chỉ đạt được những kết quả tương đối: thân khỏe mạnh, tâm an lạc, trí huệ bắt đầu phát huy từ từ, có trực giác, có tâm từ, bi, hỷ, xả hiển lộ từ từ.
Trên đây, chúng ta chỉ khảo sát một cách tổng quát và rất tương đối, con đường tu của 4 căn cơ khác biệt. Những điều kiện xuyên suốt các chặng đường tu có nhiều điểm giống nhau, như: tỉnh ngộ, quyết tâm, tinh tấn, trí huệ, thực hành v.v...Vì thế khi cô hỏi đố sợi chỉ đỏ xuyên suốt các hột bồ đề của mỗi căn cơ, các em có nhiều câu giải đáp đúng. Cô chỉ nói rõ ra tại sao các sợi chỉ đỏ có khác nhau. Kết lại, sợi chỉ đỏ nào cũng là sợi chỉ đỏ thôi. Cũng bấy nhiêu điều kiện, nhưng có điều kiện quan trọng hơn đối với căn cơ này, điều kiện khác cần thiết hơn cho căn cơ khác. Cám ơn tất cả những lời giải đáp của các em.
Tổ đình, 26- 3- 2021
TN