TÌM HIỂU VỀ TỤC ĐẾ - CHÂN ĐẾ
Phật pháp luôn có hai mặt: Tục Đế và Chân Đế.
Tục Đế là những gì nói, lý giải, hiểu được, gọi là chân lý qui ước như văn tự, ngôn ngữ, sắc tướng, âm thanh…
Chân Đế thuộc phạm vi siêu lý luận (không thể nghĩ bàn), thuộc chân lý tối hậu, chỉ có thể tu tập để hội nhập như Không Định, Chân Như.
Văn, Tư: nghe đọc và suy gẫm về giáo lý, thuộc tục đế.
Văn, Tư: nghe đọc mà ngộ, thuộc chân đế.
Tu: có ta, có pháp, thuộc tục đế.
Tu: mà thể nhập, tự chứng, tự ngộ, là chân đế.
Ví như: nói cái bánh, làm bằng bột, đường, cách làm bánh ra sao, là tục đế.
Bỏ cái bánh vào miệng, không nói một lời, vẫn biết rõ mùi vị của bánh; cái biết rõ ràng mà không lời đó, thuộc chân đế.
Ứng dụng vào thực tế như:
- Trong pháp môn niệm Phật, có người niệm, có hồng danh Phật để niệm, là tục đế. Niệm Phật đến chỗ nhất tâm bất loạn, không còn người niệm, pháp niệm, là chân đế.
- Trong pháp môn trì chú, có người trì, và có câu chú để trì, là tục đế. Trì chú đến chỗ thể nhập chơn ngôn, người trì và pháp trì đều không, là chân đế.
- Trong pháp môn thiền định, có người toạ thiền, có pháp dụng công, là tục đế. Khi nào tâm ngôn dứt, tánh giác hiển lộ, không còn người biết, chỉ còn cái biết không lời, là Định, là chân đế.
Tánh giác là cái biết thường hằng, lặng lẽ của mọi người. Nó là cái biết không lời (đây là lời nói thầm trong não). Trong đó không có suy nghĩ tính toán, trí năng biện luận, ý thức phân biệt của tự ngã. Tánh giác ngược lại với niệm hay vọng tưởng. Có niệm, có vọng tưởng, không có tánh giác. Dừng niệm, dứt vọng tưởng, tánh giác liền có mặt. Do vậy, người không tu tập không hiểu tánh giác là gì; hoặc có hiểu cũng không làm sao tánh giác có mặt khi người ấy chưa làm chủ được sự suy nghĩ.
Thông thường, khi nhìn thấy vật liền gọi tên vật, không dừng ở chỗ thấy biết (xúc, thọ). Gọi tên là nói thầm, là Tưởng. Thấy liền nói là thấy bằng trí năng, bằng ý thức. Tưởng luôn luôn có lời, nó dệt thành mạng lưới khái niệm: tốt, xấu, ưa, ghét… Đó là cái thấy Phải Là, Nên Là, có thành kiến, định kiến, chủ quan đi kèm. Nó thuộc phạm vi tục đế.
Người có công phu tu tập thiền định, khi thấy vật chỉ biết vật, dừng tại Thọ. Tức thấy bằng cái biết không lời của tánh thấy (một cơ chế của tánh giác). Không có Ý xen vào. Đó là thấy trạng thái Đang Là của vật. Vật thế nào, thấy y như thế đó. Đó là chánh kiến thuộc phạm vi chân đế.
Tu thiền là làm chủ được sự suy nghĩ, Tánh giác liền hiển lộ. Đó là trạng thái tâm vô niệm, tâm không, đơn tâm hay Định. Định sanh Huệ, là trí tuệ siêu vượt. Định cũng đưa đến Ngộ, là biết cái chưa biết, như người đang mê chợt tỉnh. Nếu không Huệ, không chứng ngộ, tu nhiều năm vẫn còn mê, thật uổng phí một đời.
Ngoài pháp tu Thiền Định, còn có pháp tu Thiền Huệ (Vipassanā). Đó là pháp Thấy Như Thật, Biết Như Thật, Thấy Biết Như Thật (Như Thực Tri, Như Thực Kiến, Như Thực Tri Kiến). Thấy Như Thật là thấy cái đang là, cái như vậy. Đó là thấy cái thực tướng của vật, không thêm một thuộc tính hay phẩm chất gì của vật vào đó. Thấy bằng tánh thấy, không có trí năng, ý thức, tự ngã trong đó. Thấy như thật sẽ đưa đến thể nhập thực tướng hay chân tánh của hiện tượng thế gian. Nó thuộc phạm vi chân đế.
Lại cũng có pháp tu Thiền Quán (Anupassanā), tức là ngắm nhìn liên tục một đối tượng, một vật để nhận ra chân tánh của nó là vô thường, khổ, vô ngã, không. Quán này là dùng mắt nhìn lâu, nhìn sâu thấy vật nó là vô thường, không thực chất tính, là duyên sinh… không có suy luận. Tức nhìn bằng tánh giác, bằng cái biết không lời. Quán như vậy, sẽ đưa đến hội nhập vào các qui luật chi phối hiện tượng thế gian , là vô thường, vô ngã, không. Hội nhập như vậy gọi là thấy tánh, tức ngộ chơn tánh của vạn vật. Nó thuộc về chân đế.
Nói tóm lại, tu thiền dù là Thiền Định, Thiền Huệ hay Thiền Quán, phải đạt được trạng thái vô ngôn, vô niệm, vắng bặt trí năng, suy nghĩ của tự ngã, tánh giác mới hiển lộ. Khi đó, không năng, không sở, không hai bên, mới chính là chân đế.
Còn dùng trí năng, ý thức để quán tưởng, tưởng tượng, dù là hướng tâm vào cảnh giới Tây phương cực lạc, Niết bàn hay Không, Chân như… bao lâu còn tưởng, quán, suy tư, tức còn hai bên (năng quán và sở quán) vẫn là tục đế.
Hiểu được tục đế, chân đế để thấy rõ con đường tu tập của mình đưa đến đâu. Vì sao tụng đọc Bát Nhã Tâm kinh năm này qua năm khác mà không hết phiền não, không thấy ngũ uẩn giai không. Vì Bát Nhã có 3 thứ:
- Tục đế Bát Nhã
- Quán chiếu Bát Nhã
- Thể nhập Bát Nhã.
Muốn ngũ uẩn giai không, tục đế Bát Nhã, quán chiếu Bát Nhã chưa đủ, phải thể nhập Bát Nhã, phải vào chân đế. Có vào được chân đế tức Chơn Không, mới phát huy Diệu Hữu. Khi ấy, không những ngũ uẩn giai không mà còn độ nhất thiết khổ ách.
Phật giáo thật vi diệu, nhưng phải hiểu đúng, làm đúng, để khỏi uổng công khổ tu.
KHÔNG CHIẾU
24/05/2001
( Trích trong Đặc San Số 4 , Thiền Tánh Không, Đặc San Xuân Nhâm Ngọ 2002)
- Tag :
- Thích Không Chiếu