Triệt Như - Tâm Tình Với Nhau - Bài 52
Ngày xưa, khoảng 25 năm trước, những ngày tháng “dài nhất của đời người”, sau mấy ngọn gió vô thường thổi tới, cô lao chao trong không gian hụt hẩng. Lúc đó tìm nguồn vui trong hoàn cảnh trống trải của mình, chỉ là mấy cái hộp nhỏ, xanh xanh đỏ đỏ của trẻ em. Chơi lắp ráp nhà cửa, phố phường, hết rồi thì tới trò chơi khó hơn một chút, “puzzle”. Những mảnh vụn đủ màu sắc, hình dạng, kích thước khác nhau gắn vào thành một bức tranh đẹp. Say mê từ ngày này qua ngày khác, kiên nhẫn, có lẽ từ trò chơi này cũng tập cho mình lòng kiên nhẫn và trí quan sát tĩ mĩ. Ban đầu chọn những mảnh puzzle lớn, đơn giản. Về sau, chọn những bức tranh có hàng trăm mảnh nhỏ để làm cho lâu, phức tạp hơn. Mỗi khi chọn được một mảnh vừa vặn gắn vào chính xác, thì có một niềm vui. Quên đời.
Cứ thế, tháng ngày qua mau. Cho tới khi trong nhà không còn hộp puzzle nào nữa thì đời trở lại bình thường, không còn nặng nề như lúc trước. Bấy giờ gặp được Phật pháp nâng đỡ vừa đúng lúc để cô có thể đứng lên làm cột trụ cho cái gia đình bé nhỏ của mình. Tuy nói là đã đứng lên được, trước mắt các con, mà có khi con gái nằm ngủ bên cạnh chắc không biết mẹ đang rơi nước mắt thầm, ướt gối giữa đêm.
Lúc đó, bắt đầu học Thiền, học khóa căn bản với Thầy năm 1996 khi ấy Thầy còn ở trên thành phố Beaverton, tiểu bang Oregon. Đến năm 1997 và 1998, cô và các bạn tổ chức khóa tu tại Nam Cali và thỉnh Thầy xuống dạy.
Mãi đến năm 1999, Thầy mới quyết định về Nam Cali luôn. Ban đầu thiền sinh chỉ mua được một căn nhà loại mobile home đường Euclid, với 3 phòng ngủ, phòng khách làm thiền đường để Thầy mở khóa tu. Khóa Bát Nhã đầu tiên được tổ chức tại đây. Đến khoảng 2002 mới có được ngôi thiền viện này tại thành phố Perris, thuộc quận Riverside.
Bây giờ nói tiếp những mảnh “puzzle” của đời cô. Khóa Căn bản I Thầy dạy năm 1995 tại Oregon, cô chưa học. Năm 1996, cô cùng với bà Tín Giáo bay lên Oregon hoc khóa Căn bản II. Lúc đó Thầy dạy khóa Căn bản gồm 2 lớp. Mỗi lớp dạy thứ bảy và chủ nhật, kéo dài 3 tháng. Khi ấy, cô vẫn còn ốm yếu lắm, chỉ cân có 85lbs, Vẫn khó cười. Thầy nói cô xanh mét. Tuy đã tu học, tâm nhẹ nhàng hơn. Nhưng cô còn nhớ, có một lần, khi đang dùng cơm cùng chung bàn với Thầy và các bạn, hôm đó, không biết ai đã mở máy cho nghe nhạc hoà tấu đàn tranh. Đang ăn yên lặng, bỗng phóng tâm lắng nghe tiếng đàn ai oán não nùng, nước mắt tuôn rơi xuống chén cơm. Thầy nhìn thấy, Thầy cười:
- Rớt rồi, con ơi!
Năm 1997, khóa tu nhập thất 3 tháng tổ chức tại Corona ở Nam Cali, có vài chuyện buồn phiền, vài người rủ nhau chèn ép cô. Một hôm giữa lớp, không nhớ bắt đầu từ chuyện gì, tủi thân, cô rơi nước mắt mà nói: “- Tại con mồ côi, nên như vậy ...”
Lúc đó, Thầy giơ tay lên cao, Thầy nói lớn:
- Con có Thầy đây! Có Thầy đây con!
Từ đó, người duy nhất trên đời để cô yên tâm nương tựa, chỉ là Thầy.
Cha mẹ không còn, người bạn đường cũng không. Bà con cô bác đều ở xa. Một mình trên cõi đời. Nơi xứ lạ quê người.
Từ đó, chuyện gì không biết đúng hay sai, chuyện chung hay chuyện tư, cũng đều nhờ Thầy chỉ dạy.
Kể lại vài chuyện nho nhỏ này chỉ để các em biết ngày trước cô rất dễ rơi nước mắt. Hễ muốn là cứ nghĩ tới quá khứ, là rơi nước mắt thôi. Cho nên sau này khi cô giảng bài kinh” Nhất Dạ Hiền Giả” là cô giảng bằng kinh nghiệm của chính mình, không phải nói suông.
Trãi qua nhiều năm tháng, tâm cô lần lần bình an lại. Tuy vậy, khi có rảnh rỗi, nghe thử vài bài hát xưa, những bài hát thời học sinh, “Ngày xưa Hoàng Thị, Đưa em tìm động hoa vàng...” lòng cũng chùng xuống.
Cô chiêm nghiệm rằng mình phải tỉnh thức luôn luôn, phấn đấu với chính mình, phải ghi nhớ tới những chân lý sâu sắc: bản thể cuộc đời là Như Huyễn, là Trống Không. Trước mắt sự kiện gì xảy tới cũng do duyên sinh, bản thể cũng Trống Không. Huống chi là quá khứ. Quá khứ còn lại gì? Chỉ là những bóng hình mờ ảo trong tâm của mình mà thôi. Cả cuộc đời, bây giờ còn lại gì? Chỉ là tay trắng và cái quá khứ nặng trĩu.
Hổm rày cô viết những đoạn văn ngắn, như là từ những cảm hứng bất chợt, không có dự tính trước. Như đã có nói trong lúc đầu, dự tính của cô là viết sách cho tuổi trẻ, những vấn đề của tuổi trẻ, lời văn sẽ nhẹ nhàng, đơn giản, dễ viết. Tuy nhiên cô đã ngẫm nghĩ, những loại sách <Học làm Người> đã có nhiều rồi, viết nữa là thừa. Thành ra chần chờ hoài, không làm được gì.
Mãi tới thời điểm này, cô mới thấy có con đường đơn giản, phóng khoáng. Không gò ép mình viết cho một đối tượng nào nhứt định, không cần giới hạn mình trong một chủ đề đã sẵn có. Cũng không có một khung bối cảnh nào. Vậy mà dòng cảm hứng cứ tuôn ra từng ngày. Cô thấy giống như những mảnh vụn “puzzle”, hình dáng, màu sắc, không cái nào giống cái nào. Những đoạn văn ngắn khi tả cảnh, khi nói tình cảm, vui, buồn, khi là chuyện đời xưa, khi lại đời này, chuyện thì bên đông phương, chuyện tây phương, khi là chuyện thiền, có khi chuyện đời ...
Tất cả cũng chỉ là cõi tâm của một người. Xem như cô tặng cho các em những mảnh vụn trò chơi “puzzle”, ai biết thì ghép lại làm thành một bức tranh tâm của một đời phù du.
20- 7- 2020
TN
Buc tranh tam that su la su ghep lai cua nhung manh puzzles trong doi....